Nội
dung câu hỏi: P/E và EPS là gì? Các chỉ số này có vai trò gì trong quá
trình phân tích, đánh giá một mã chứng khoán? Xin cho biết cách xác
định từng thành phần cấu tạo nên các chỉ số trên? (Nguyễn Mạnh Quân)
Chỉ
số EPS (Earning Per Share) là lợi nhuận (thu nhập) trên mỗi cổ phiếu.
Đây là phần lợi nhuận mà công ty phân bổ cho mỗi cổ phần thông thường
đang được lưu hành trên thị trường. EPS được sử dụng như một chỉ số thể
hiện khả năng kiếm lợi nhuận của doanh nghiệp, được tính bởi công thức:
EPS = (Thu nhập ròng - cổ tức cổ phiếu ưu đãi) / lượng cổ phiếu bình
quân đang lưu thông.
Hai
doanh nghiệp có thể có cùng tỷ lệ EPS nhưng một trong hai có thể có ít
cổ phần hơn tức là doanh nghiệp này sử dụng vốn hiệu quả hơn. Nếu
như các yếu tố khác là cân bằng thì rõ ràng doanh nghiệp này tốt hơn
doanh nghiệp còn lại. Vì doanh nghiệp có thể lợi dụng các kỹ thuật tính
toán để đưa ra con số EPS hấp dẫn nên các nhà đầu tư cũng cần hiểu rõ
cách tính của từng doanh nghiệp để đảm bảo "chất lượng" của tỉ lệ này.
Tốt hơn hết là không nên dựa vào một thước đo tài chính duy nhất mà nên
kết hợp với các bản phân tích tài chính và các chỉ số khác.
EPS
thường được coi là biến số quan trọng duy nhất trong việc tính toán giá
cổ phiếu. Đây cũng chính là bộ phận chủ yếu cấu thành nên tỉ lệ P/E (hệ
số giá trên thu nhập). Hệ số (P/E) là một trong những chỉ số phân tích
quan trọng trong quyết định đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư. Thu nhập
từ cổ phiếu sẽ có ảnh hưởng quyết định đến giá thị trường của cổ phiếu
đó.
Hệ số P/E
đo lường mối quan hệ giữa giá thị trường (Market Price - P) và thu nhập
của mỗi cổ phiếu (Earning Per Share - EPS) và được tính như sau: P/E =
P/EPS
Trong đó
giá thị trường P của cổ phiếu là giá mà tại đó cổ phiếu đang được mua
bán ở thời điểm hiện tại; thu nhập của mỗi cổ phiếu EPS là phần lợi
nhuận ròng sau thuế mà công ty chia cho các cổ đông thường trong năm
tài chính gần nhất.
P/E
cho thấy giá cổ phiếu hiện tại cao hơn thu nhập từ cổ phiếu đó bao
nhiêu lần, hay nhà đầu tư phải trả giá cho một đồng thu nhập bao nhiêu.
Nếu hệ số P/E cao thì điều đó có nghĩa là người đầu tư dự kiến tốc độ
tăng cổ tức cao trong tương lai; cổ phiếu có rủi ro thấp nên người đầu
tư thoả mãn với tỷ suất vốn hoá thị trường thấp; dự đoán công ty có tốc
độ tăng trưởng trung bình và sẽ trả cổ tức cao.
Hệ
số P/E rất có ích cho việc định giá cổ phiếu. Giả sử người đầu tư có cổ
phiếu ABC không được giao dịch sôi động trên thị trường, vậy cổ phiếu
đó có giá bao nhiêu là hợp lý? Lúc đó cần nhìn vào hệ số P/E được công
bố đối với nhóm các loại cổ phiếu tương tự với cổ phiếu ABC, sau đó
nhân thu nhập của công ty với hệ số P/E sẽ cho chúng ta giá của loại cổ
phiếu ABC.
Đối với các công ty đang niêm yết, tra bảng ta sẽ có các chỉ số này:
Ví dụ tra thông tin trên bản tin thị trường chứng khoán ngày 29/8/2007 của VNM ta có:
EPS= 5.180 đ/cf
P/E = 31.47;
Đối với các công ty chưa niêm yết ta tính như sau:
Ví
dụ: Tìm hiểu một công ty có vốn điều lệ là 100 tỷ đồng (mỗi cổ phiếu có
mệnh giá 10.000 đồng. Như vậy công ty này phát hành 10 triệu cổ phiếu;
Giá trên thị trường là 50.000 đồng/cổ phiếu, lợi nhuận sau thuế (LNST)
năm trước là 20 tỷ đồng.
Ta tính như sau:
EPS = LNST / số cổ phiếu phát hành = 20 tỷ đồng / 10 triệu cổ phiếu = 2.000đồng/cổ phiếu
P = Thị giá = 50.000 đ
P/E = 50.000 / 2.000 = 25
Vấn đề là chỉ số P/E bao nhiêu lần thì hình thành cuộc chơi, ở đây có hai trường hợp xảy ra:
- Nếu nhà đầu tư chấp nhận P/E cao thì rủi ro có thể cao do mua giá cao so với lợi nhuận công ty đạt được.
-
Mặt khác mua P/E cao cũng có thể rủi ro thấp, vì lúc đó công ty mua vào
có thể là công ty có giá như công ty Coca Cola hay Hàng không Việt Nam
chẳng hạn, các công ty này phát triển rất ổn định .
Từ
đó mới hình thành một biên độ chỉ số P/E cho từng loại công ty, từng
lĩnh vực công nghiệp và từng môi trường của thị trường. Theo xu hướng
trên thị trường chứng khoán các nước trên thế giới thì lĩnh vực sau đây
thường chấp nhận các chỉ số P/E cao (không kể các tập đoàn hùng mạnh):
ngân hàng, tài chính chứng khoán, công nghệ tin học, viễn thông, công
nghệ sinh học, các ngành sản xuất công nghiệp kỹ thuật cao.
Hiện
nay, các chuyên gia tài chính Việt Nam nhận định P/E tại thị trường
Việt Nam từ 15 - 35 lần, điều đó có nghĩa lĩnh vực tài chính ngân hàng
hoặc các công ty có uy tín thì P/E tại thị trường Việt Nam từ 20 - 35
lần và những lĩnh vực khác có thể dưới 20.
Tuy
nhiên, bạn hãy cứ nghĩ xem, nếu công ty không có lợi nhuận điều đó có
nghĩa là lợi nhuận âm, thì thị giá cổ phiếu chia cho lợi nhuận trong
một năm là con số âm thì làm sao có chỉ số P/E được .
Do
đó, P/E chỉ là một số tương đối, nhà đầu tư cũng cần phải đánh giá thêm
các chỉ số tài chính khác có liên quan mang tính kỹ thuật nhiều hơn.
Theo quan điểm cá nhân, tôi thấy với thị trường Việt Nam nên tư duy cổ phiếu đắt và rẻ như sau:
P/E <10 cổ phiếu rẻ
10 < P/E < 25 cổ phiếu hợp lý
P/E > 25 cổ phiếu đắt
Trần Quang Huy - Chuyên viên Phân tích của SME Securities
Câu trả lời được cung cấp bởi SME Securities:
Trụ sở: 39A Ngô Quyền, Hoàn Kiếm, Hà Nội
Điện thoại: 04. 220 5678/79 Fax: 04.220 5680
Chi nhánh: Số 11 Bến Chương Dương, Quận 1, TP.HCM
Điện thoại: 08.914 7388/89 Fax: 08.914 7390
Đại lý nhận lệnh số 01: 24 Láng Hạ, Hà Nội
Điện thoại: 776 4860
Website: www.smes.vn