Main » 2009»July»15 » Sóng ELLIOTT VÀ SỐ FIBONACCI ĐỂ DỰ ĐOÁN XU HƯỚNG GIÁ CHỨNG KHOÁN
Sóng ELLIOTT VÀ SỐ FIBONACCI ĐỂ DỰ ĐOÁN XU HƯỚNG GIÁ CHỨNG KHOÁN
3:44 PM
Lý Thuyết sóng Elliott: Nguyên tắc sóng Elliott là một trong những công cụ phân tích kỹ thuật
mà một số nhà kinh doanh chứng khoán dùng để phân tích những xu hướng
giá trong các thị trường tài chánh. “Cha đẻ” của nguyên tắc này là Ông
Ralph Nelson Elliott (1871-1948). Nghề chính của ông là kế tóan và ông
đã nghiên cứu và phát triển ra nguyên tắc này vào những năm 30 của thế
kỷ trước. Theo ông Elliott, sự thay đổi của giá cả sẽ tạo ra
những cơn sóng, như hình vẽ. Trong đó một cơn sóng cơ bản sẽ có 5 cơn
sóng “chủ” và 3 cơn sóng điều chỉnh. Trong 5 con sóng chủ thì sóng số
1, 3 và số 5 gọi là sóng “chủ và động”, và sóng 2, 4 gọi là sóng “chủ
và điều chỉnh”. 2 con sóng điểu chỉnh được gọi là sóng A,B, C. Trong
mỗi một con sóng như vậy lại có những con sóng nhỏ và cũng tuân theo
quy luật của lý thuyết Elliot. Một đợt sóng chủ hòan chỉnh sẽ có 89
sóng và đợt sóng điều chỉnh hòan chỉnh sẽ có 55 sóng. Tùy theo thời gian độ lớn của sóng sẽ được phân theo thứ tự sau
Grant Supercycle: sóng kéo dài nhiều thập kỹ, đôi khi cả thế kỹ
Supercycle: kéo dài từ vài năm đến vài thập kỹ
Cycle: kéo dài từ 1 đến vài năm
Primary: kéo dài từ vài tháng đến vài năm
Intermediate: kéo dài từ vài từ tuần đến vài tháng
Minor: kéo dài trong vài tuần
Minute: Kéo dài trong vài ngày
Minuette: Kéo dài trong vài giờ.
Subminutte: Kéo dài trong vài phút.
Dãy số Fibonacci Dãy
số do nhà tóan học người Ý Leonardo Fibonacci (1175-1250) phát minh ra.
Bắt đầu là số 0 và số 1, sau đó là những số kế tiếp được tạo ra bằng
cách công 2 số đứng trước. Ví dụ 1 = 1+0, 5 = 3+2, 34=21+13. Điều kỳ
diệu hơn là cứ lấy số lớn chia cho số nhỏ hơn một bậc , ví dụ 89/55 ta
sẽ được 1.618; lấy số nhỏ chia cho số lớn hơn 1 bậc, ví dụ 21/34 ta sẻ
được 0.6180, lấy số nhỏ chia cho số lớn hơn 2 bậc, ví dụ 13/34 ta sẽ
được 0.382. Tất cả các con số thuộc dãy số Fibonacci 0, 1, 1, 2,
3, 5, 8 …và các con số 0.618 và 0.382, trong đó đặc biệt nhất là con số
được mệnh danh là “tỷ lệ vàng” 1.618 - xuất hiện rất nhiều trong tự
nhiên, trong cơ thề con người, trong vũ trụ, trong kiến trúc, xây dựng. Quan trọng hơn đối với chúng ta những nhà đầu tư,
kinh doanh chứng khoán, những con số “đầy ma lực trên” bên trên xuất
hiên ngay trong thị truờng tài chánh, nhất là những biến động về giá cả. Ralph
Nelson Elliott khẳng định rằng ông nghiên cứu và phát mình ra lý thuyết
sóng truớc khi biết Fibonacci nhưng những con số trùng hợp đến kỳ lại:
5 sóng chủ, 3 sóng điều chỉnh, 89 sóng chủ, 55 sóng điều chỉnh cũng
như tỷ lệ giá của các con sóng luôn ở chung quanh các tỷ lệ vàng 0.618,
1.618, 0.328. Do đó có một giá thuyết khác cho rằng Ông Elliott đã ứng
dụng những con số Fibonacci vào lý thuyết của mình.
Một dãy sóng 5-3 điển hình trong thị trường tăng trường “bò húc” Dưới
đây là phân tích một con sóng 5-3 điển hình của thị trường trong giai
đọan tăng trưởng - “bò húc”. Cũng con sóng 5-3 này trong Thị trường suy
thóai – “gấu ngủ” sẽ được vẽ hòan tòan ngược lại. Sóng chủ số 1.
Đợt sóng đầu tiên này là có điểm xuất phát từ thị truờng con gấu (suy
thóai), do đó sóng 1 ít khi được nhận biết ngay từ đầu. Lúc này thông
tin cơ bản về các công ty niêm uớc vẫn đang là thông tin tiêu cực.
Chiều hướng của thị trường trước khi sóng 1 xảy ra chủ yếu vẫn là thị
truờng suy thoái. Những nhà phân tích cơ bản
vẫn đang tiếp tục điều chỉnh thu nhập kỳ vọng thấp xuống so với dự
kiến. Khối lương giao dịch có tăng chút ít theo chiều hướng giá tăng.
Tuy vậy việc tăng này là không đáng kể. Do đó nhiều nhà phân tích kỹ
thuật không nhận ra sự có mặt của đợt sóng số 1 này. Sóng chủ số 2.
Sóng chủ 2 sẽ điều chỉnh sóng 1, nhưng điểm thấp nhất của sóng 2 không
bao giờ vượt qua điểm xuất phát đầu tiên của sóng 1. Tin tức dành cho
thị trường vẫn chưa khả quan. Thị trường đi xuống ở cuối sóng 2 để thực
hiện việc “kiểm tra” độ thấp của thị trường. Những người theo phái con
gấu vẫn đang tin rằng thị trường con gấu vẫn đang ngự trị. Khối lượng
giao dịch sẽ ít hơn đợt sóng 1. Giá sẽ được điều chỉnh giảm và thuờng
nằm trong khoảng 0.382 đến 0.618 của mức cao nhất của sóng 1. Sóng chủ số 3.
Thông thường đây là sóng lớn nhất và mạnh mẽ nhất của xu hướng lên giá.
Ngay đầu sóng 3, thị trường vẫn còn nhận những thông tin tiêu cực vì
vậy có nhiều nhà kinh doanh không kịp chuẩn bị để mua vào. Khi sóng 3
đang ở lưng chừng, thị trường bắt đầu nhận những thông tin cơ bản tích
cực và những nhà phân tích cơ bản bắt đầu điều chỉnh thu nhập kỳ vọng.
Mặc dù có những đợt điều chỉnh nho nhỏ trong lòng của sóng 3, giá của
sóng 3 tăng lên với tốc độ khá nhanh. Điểm cao nhất của sóng 3 thường
cao hơn điểm cao nhất của sóng 1 với tỷ lệ 1,618:1 Sóng chủ số 4.
Đây thật sự là một con sóng điều chỉnh. Giá có khuynh hướng đi xuống và
đôi khi có thể răng cưa kéo dài. Sóng 4 thường sẽ điều chỉnh sóng 3 với
mức 0.382 – 0.618 của sóng 3. Khối lượng giao dịch của sóng 4 thấp hơn
của sóng 3. Đây là thời điểm để mua vào nếu như nhà kinh doanh nhận
biết được tiềm năng tiếp diễn liền sau đó của con sóng 5. Tuy vậy việc
nhận biết điểm dừng của sóng 4 là một trong những khó khăn của các nhà
phân tích kỹ thuật trường phái sóng Elliot. Sóng chủ số 5.
Đây là đợt sóng cuối cùng của 5 con sóng “chủ”. Thông tin tích cực tràn
lan khắp thị trường và ai cũng tin rằng thị trường đang ở trong thế bò
húc. Khối lượng giao dịch của sóng 5 khá lớn , tuy vậy thông thường vẫn
nhỏ hơn sóng 3. Điều đáng nói là những nhà kinh doanh “không chuyên
nghiệp” thường mua vào ở những điểm gần cuối sóng 5. Vào cuối con sóng
5, thị trường nhanh chóng chuyển hướng. Sóng điều chỉnh A.
Sóng này bắt đầu cho đợt sóng điều chỉnh A,B,C. Trong thời gian diễn ra
sóng A, thông tin cơ bản vẫn đang rất lạc quan. Mặc dù giá xuống, nhưng
phần đông các nhà kinh doanh vẫn cho rằng thị trường đang trong thế bò
húc. Khối lượng giao dịch tăng trưởng khá đều đặn theo con sóng A. Sóng điều chỉnh B.
Giá tăng trở lại và với mức cao hơn so với điểm cuối sóng A. Sóng B
được xem là điểm kéo dài của thị trường bò húc. Đối với những người
theo trường phái phân tích kỹ thuật cổ điển, điểm B chính là vai phải
của đồ thị Đầu và Vai ngược. Khối lượng giao dịch của sóng B thường
thấp hơn của sóng A. Vào lúc này, những thông tin cơ bản của các công
ty không có những điểm tích cực mới, thế nhưng cũng chưa chuyển hẳn qua
tiêu cực. Sóng điều chỉnh C. Giá có khuynh hương giảm
nhanh hơn các đợt sóng trước. Khối luợng giao dịch tăng. Hầu như tất cả
mọi nhà kinh doanh, đầu tư đều nhận thấy rõ sự ngự trị của “gấu ngủ”
trên thị trường, chậm nhất là trong đợt sóng nhỏ thứ 3 của sóng C.
Sóng C thường lớn như sóng A. Điểm thấp nhất của sóng C ít nhất bằng
điểm thấp nhất của sóng A nhân với 1.618. Thay cho lời kết: Tuy
Lý thuyết sóng Elliott kết hợp với dãy số Fibonacci bị một số chỉ trích
phê bình, nó vẫn được rất nhiều nhà nghiên cứu và kinh doanh các sản
phẩm tài chánh cổ vũ và sử dụng trong việc phân tích giá. Và ngày nó
càng trở nên phổ biến vì sự chính xác đôi khi đến bất ngờ của nó. Trong
hội thảo đầu tư tài chánh châu Á, ngày 26/7/2007 tại Thành Phố Hồ Chí
Minh, ông Joe DiNapoli, một chuyên gia về kỹ thuật Fibonacci đã chứng
minh rằng trong năm v ừa rồi, có hai con sóng của VNIndex đã theo đúng
các con số Fibonacci. Dĩ nhiên chúng ta có thể tìm ra thêm nhiều chứng
cớ xác thực của VNIndex cho “lý thuyết sóng Elliott kết hợp với
Fibonacci”. Điều đó cũng giống như nhiều dụng cụ phân tích kỹ thuật
khác: khá chính xác khi chứng minh quá khứ, nhưng chính xác “vừa phải”
khi dự đoán tương lai. Do đó khi xử dụng lý thuyết trên cũng như bất cứ
phương pháp/dụng cụ phân tích kỹ thuật nào khác, chúng ta phải hết sức
thận trọng, sáng suốt và quan trọng hơn hết là chuẩn bị chấp nhận một
mức độ rủi ro nhất định.