Nếu quá hấp tấp muốn giảm thặng dư tài khoản
vãng lai Trung Quốc – một yếu tố được cho là nguyên nhân dẫn đến khủng
hoảng tài chính toàn cầu, nhiều hậu quả xấu có thể đến
Ông
Larry Summers, chủ tịch hội đồng kinh tế của Tổng thống Obama, nhận
định Trung Quốc không còn có thể cư xử như Trung Quốc trước đây bởi Mỹ
nhiều khả năng sẽ ứng xử giống Trung Quốc.
Hiện nay, nhiều chuyên gia tin rằng sự
mất cân bằng trên toàn cầu, đặc biệt là thâm hụt tài khoản vãng lai lớn
tại Mỹ và thặng dư tài khoản vãng lai lớn tại Trung Quốc đã góp phần
gây ra khủng hoảng tài chính năm 2008 và năm 2009, thanh khoản tại thị
trường Mỹ quá dồi dào, các sản phẩm tài chính độc hại có điều kiện phát
triển.
Ngoài ra, thị trường còn đồng thuận về việc cần phải cân bằng lại nhu cầu của thế giới để đảm bào đà phục hồi kinh tế.
Người
tiêu dùng và các hộ gia đình Mỹ phải khôi phục lại bảng cân đối kế toán
của họ, theo đó tỷ lệ tiết kiệm cần tăng cao và thâm hụt tài khoản vãng
lai giảm xuống. Điều này đồng nghĩa với việc nhu cầu hàng hóa dịch vụ
của Mỹ giảm xuống, nhu cầu hàng hóa dịch vụ của nơi khác phải tăng lên
để bù lại.
Trong các cuộc tranh
luận, phần lớn thế giới thường nói đến Trung Quốc. Thế nhưng cả thâm
hụt của Mỹ và thặng dư của Trung Quốc, tất nhiên, không chỉ được quyết
định bởi hai nước này. Năm 2008, thặng dư của Trung Quốc là 426 tỷ USD
trong khi mức thâm hụt của Mỹ là 706 tỷ USD. Mức thặng dư của Trung
Quốc hay thâm hụt của Mỹ là kết quả của thâm hụt và thặng dư song phương với tất cả các nước khác trên thế giới chứ không phải chỉ riêng 2 nước này.
Thặng
dư của Trung Quốc lớn bởi kinh tế nước này tăng trưởng mạnh, mức tăng
trưởng lên tới 10%. Vì thế cũng là hợp lý nếu người ta nói đến việc
thặng dư này nên giảm để bù lại cho việc nhu cầu tiêu dùng từ phía Mỹ
đi xuống. Hiện nay, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) dự đoán thặng dư thương
mại Trung Quốc sẽ tăng trở lại lên mức 595 tỷ USD vào năm 2012.
Thế
nhưng trọng tâm vào Trung Quốc có thể quá nhiều. Dù người ta muốn thặng
dư Trung Quốc giảm, điều này không thể xảy ra trong một sớm một chiều
mà không gây ra ảnh hưởng xấu lên tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc.
Trung
Quốc có thể thay đổi mô hình tăng trưởng của nước này sau nhiều năm
bằng việc chuyển nhiều tài nguyên khỏi việc sản xuất hàng xuất khẩu và
hàng thay thế hàng nhập khẩu, để đồng nhân dân tệ tăng giá.
Nếu
Trung Quốc cố gắng làm điều này quá sớm, sự mất cân bằng trong cung –
cầu nội địa sẽ làm chậm lại tăng trưởng kinh tế Trung Quốc. Nếu kinh tế
Trung Quốc tăng trưởng chững lại, những nước xuất khẩu hàng hóa vào
Trung Quốc sẽ gặp nhiều khó khăn. Không nên quên rằng tăng trưởng kinh
tế Trung Quốc có tính hỗ trợ lớn đối với tăng trưởng kinh tế thế giới.
IMF
dự báo thặng dư của Trung Quốc năm 2012 có thể thấp hơn chút, cụ thể là
400 tỷ USD. Thế nhưng việc thặng dư hạ có thể không phải là điều thế
giới mong muốn ở thời điểm đó. Các nước vùng Vịnh có thể sẽ duy trì
thặng dư thương mại lớn, IMF cho rằng con số thặng dư ở mức 250 tỷ USD,
giá dầu được dự báo sẽ tăng khi đà phục hồi kinh tế mạnh hơn.
Nhật
sẽ có thặng dư thương mại, một phần bởi nhu cầu cần tiết kiệm nhiều hơn
khi dân số ngày một già. Vậy nhu cầu ròng của nước nào sẽ tăng lên để
giúp cân bằng kinh tế thế giới? Nước nào sẽ phải chịu thâm hụt lớn?
Nhóm
nước mới nổi và nhóm nước đang phát triển bên ngoài Trung Quốc sẽ làm
việc này. Dù cán cân thanh toán và triển vọng kinh tế của các nước khác
nhau, thế nhung nhìn chung cho đến nay họ vẫn chưa phải là nước nhập
khẩu vốn ròng bất chấp việc tình hình kinh tế vĩ mô nói chung đã cải
thiện, nhu cầu đầu tư cao, dòng vốn sinh lời tốt. Thay vào đó, nhiều
nước cố gắng tăng dự trữ ngoại hối để tự bảo vệ họ trước những rủi ro
từ thị trường vốn quốc tế.
Những
nước đang phát triển hoặc mới nổi hiện vẫn bị nhà đầu tư nước ngoài coi
như tiềm ẩn nhiều rủi ro. Hãy xét đến mốc năm 2012, nếu nhóm nước này
có thâm hụt khoảng 500 tỷ USD tương đương gần 3% GDP (tính trung bình),
điều này sẽ đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng nhu cầu ròng của thế
giới và góp phần giúp kinh tế thế giới cân bằng dần dần hay cho việc
đột ngột chặn thặng dư thương mại Trung Quốc tăng.
Giải
pháp hợp lý cho việc này chính là Trung Quốc, nhóm nước vùng Vịnh giàu
có tăng cường đầu tư vào thế giới các nước đang phát triển, những ngân
hàng phát triển tăng cường cho vay, các nước đưa ra thêm chương trình
bảo hiểm song phương và đa phương để giảm thiểu rủi ro mà nhà đầu tư
dài hạn đương đầu, một Quỹ tiền tệ quốc tế thận trọng hơn khiến nhu cầu
tăng dự trữ ngoại tệ giảm, chính sách kinh tế tại nhóm nước đang phát
triển ổn định hơn.
Khi
người ta tập trung giải quyết những thách thức trên cùng với những lo
lắng về thặng dư của Trung Quốc, trên thị trường sẽ có nhiều việc làm,
tăng trưởng kinh tế tại các nước trên thế giới sẽ tốt hơn.
Tác
giả bài viết là phó chủ tịch bộ phận kinh tế và phát triển toàn cầu tại
viện nghiên cứu Brookings, ông trước đây từng là Bộ trưởng Tài chính
Thổ Nhĩ Kỳ.
Dưới đây là lời khuyên của các chuyên gia có thể giúp nhà đầu tư tránh được những cái bẫy trên thị trường.
Mặc
dù thị trường đang trên đà hồi phục nhưng rủi ro chưa phải đã hết. Dưới đây là
lời khuyên của các chuyên gia có thể giúp nhà đầu tư tránh được những cái bẫy
trên thị trường.
TTCK
đã bật lên mạnh mẽ trong thời gian qua, nhưng các nhà đầu tư cá nhân vẫn còn chưa
hết choáng váng.
Không
nhiều người cảm thấy nhẹ nhõm hơn ngay cả khi chỉ số S&P 500 đã tăng tới
56% kể từ tháng 3, bởi con số về tỷ lệ thất nghiệp đã vượt mức 10% theo báo cáo
của Bộ lao động Hoa Kỳ ngày 6/11.
Ông
Milo Benningfield, chuyên gia của hãng tư vấn tài chính Benningfield nói: "Rất
nhiều nhà đầu tư tin rằng sự hồi phục hiện nay sẽ không kéo dài”. Rõ ràng đây vẫn
là khoảng thời gian khó khăn, và thị trường thời gian qua đã cho thấy cái giá
phải trả cho những quyết định sai lầm cao đến nhường nào.
Tờ
Businessweek đưa ra một vài lời khuyên giúp các nhà đầu tư tránh những sai lầm
thường gặp:
1. Đừng dốc cạn túi
trong một lần mua vào
Một
sự lạc quan thái quá dù nhỏ cũng có thể gây nguy hiểm. Những nhà đầu tư cá nhân
thường hay bán tháo cổ phiếu khi thị trường đã giảm mạnh và mua lại khi thị trường
đã tăng rõ ràng. Và như bà Susan Elser, hãng Elser Financial Planning tại Indianapolis nói: "Mua
cao bán thấp là điều tồi tệ nhất bạn có thể làm khi đầu tư”.
Rất
nhiều người đã quay lưng với cổ phiếu cũng như các tài sản rủi ro khác trong vài
năm vừa qua đang nóng lòng vì bỏ lỡ mất chuyến tàu đi lên gần đây của thị trường.
Thế nhưng hiện giờ có phải là thời điểm tốt để mua vào?
Đừng
lao vào thị trường chỉ vì tiếc nuối khi đã bỏ lỡ cơ hội!
"Sai
lầm lớn nhất là cố gắng cải thiện mọi thứ ngay tức thời”, Chủ tịch Minerva
Planning Group tại Atlanta,
ông Micheal Porter nói.
Với
sự tăng trưởng như thời gian qua, thị trường hoàn toàn có thể sụt giảm tới 10%,
15% hay 20% bất cứ lúc nào.
Do
vậy, thay vì dôc cạn túi để đầu tư trong
một lần, ông Porter khuyến nghị nhà đầu tư nên mua vào dần dần, rải rác trong cả
năm tới – thậm chí là kéo dài hơn nữa nếu có vốn lớn. Điều đó có nghĩa là bạn sẽ
tham gia thị trường trong dài hạn và giảm thiểu nguy cơ mua vào ở đỉnh.
2. Không nên chạy theo
những "đợt sóng”
Đầu
tư theo phong trào thường là một ý định tồi tệ.
Ví
dụ như những quảng cáo khuyến khích đầu tư vàng xuất hiện trên tivi khi giá của
kim loại quý này tăng vọt, tiếp cận mức 1.100 USD/ounce vào ngày 6/11.
Song,
đó rất có thể là thời điểm giá vàng đã chạm đỉnh hoặc ở gần mức đó. "Theo tôi, đây
có lẽ là thời điểm tồi nhất để nhảy vào thị trường vàng”- Benningfield nói. Ông
cũng đưa ra một lời cảnh báo về trào lưu đầu cơ tiền tệ gần đây: "Nó thực sự đầy
rủi ro”
Cùng
với những tài sản khác, vàng có thể là một phần quan trọng trong danh mục đầu tư.
Nhưng các chuyên gia như Steve Medland thuộc công ty quản lý quỹ TABR tại California khuyến nghị
chỉ nên giữ một tỷ lệ vàng dưới 5% trong tổng giá trị danh mục của bạn.
3. Đừng xem tin nóng và
các xu hướng chính trị như là những chỉ dẫn đầu tư
"Dù
bạn có đồng ý hay không thì việc ra quyết
định đầu tư dựa vào một ai đó có chức vị trong cơ quan nhà nước vẫn là một sai
lầm lớn” – Elaine Scoggins, giám đốc khách hàng của hãng tư vấn Meriman nói.
Từ
sau cuộc tranh cử tổng thống của Barack Obama, bầu không khí chính trị tích cực
được hâm nóng, song nó hoàn toàn có thể hướng nhà đầu tư đến những quyết định
sai lầm.
Dựa
vào niềm tin chính trị của mình, nhiều người đã nhảy vào thị trường trong một hoàn cảnh tồi tệ: lạm phát
cao, đồng USD suy sụp còn thuế suất thì tăng vọt. Ông Scoggins nói: ”Có quá nhiều
điều đáng lo ngại từ giới truyền thông và chính trường”.
Những
động thái chính trị cùng với các vấn đề thời sự
gần đây có xu hướng kích thích cảm tính nhất thời của nhà đầu tư - điều
hoàn toàn không tốt cho chiến lược đầu tư dài hạn. Ông Medland nói: "Những tin
tức trên báo chí không phải là lời tiên đoán cho thị trường”
4. Hãy cân nhắc tới chất
lượng cổ phiếu
Trong
đợt hồi phục của thị trường kể từ tháng 3 đến nay, nhóm cổ phiếu của các công
ty làm ăn kém hiệu quả nhất lại đang có được sự tăng trưởng mạnh mẽ nhất. Sau
khi giảm sâu trong cuộc khủng hoảng, những cổ phiếu này đã bật lên mạnh mẽ cùng
với niềm tin vào xu thế đi lên của nền kinh tế.
Rất
nhiều công ty chịu ảnh hưởng nặng nề từ đợt suy thoái đang chứng kiến giá trị vốn
hóa của mình tăng gấp đôi gấp ba, trong khi những công ty làm ăn ổn định lại bị
lu mờ trên thị trường.
Hiện tượng tăng giá bong bóng của nhiều cổ phiếu
trên thị trường hiện nay có sự góp mặt không nhỏ của một số công ty
chứng khoán.
Những lời tư vấn kiểu như
"nên nhắm vào những cổ phiếu có thông tin chia thưởng”
đã tạo ra phong trào đánh lên cổ phiếu có những thông
tin kiểu này. Nhiều công ty chứng khoán còn đứng đằng
sau, dùng tiền của mình hậu thuẫn cho khách hàng đánh
lên cổ phiếu có thông tin hỗ trợ chia thưởng cổ
phiếu. Động thái này chỉ nhằm kiếm lời trong ngắn
hạn và đẩy hòn than cháy đỏ vào tay những nhà đầu
tư nhỏ lẻ đến sau.
Khi giá một cổ phiếu được
đẩy lên gần đến đỉnh, các nhà đầu tư lớn sẽ
thoát ra ngoài, chỉ còn nhà đầu tư nhỏ lẻ thiếu hiểu
biết, thiếu thông tin ở lại. Nếu thị trường tiếp
tục hậu thuẫn cho xu thế tăng, nhà đầu tư mua sau có
thể kiếm được 5 - 7%. Nhưng nếu thị trường giảm như
hiện nay thì mức thua lỗ là rất lớn.
Trong khi đó, các nhà đầu tư
lớn khôn ngoan lại ôm đống tiền sang đánh cổ phiếu
khác. Đánh cổ phiếu khác chán, tiền lại chảy về cổ
phiếu được đánh lên trước đó đã tích lũy một thời
gian để đánh lên tiếp.
Và việc thị trường giảm sàn
nhiều phiên vừa qua là kết quả của việc nhiều nhóm
nhà đầu tư cùng thổi lửa vào thị trường, trong đó
có một nhóm công ty chứng khoán.
Nhóm công ty này đã cổ súy cho
các nhà đầu tư chơi chứng khoán theo phương thức mạo
hiểm bằng những tư vấn công khai, tư vấn ngầm về
việc lướt sóng các cổ phiếu có tin chia thưởng. Bằng
sự hậu thuẫn về tiền, chứng khoán cho bán khống để
các nhà đầu tư lớn có khả năng thổi bùng than nóng
thành đám lửa.
Thông thường, nhà đầu tư tham
gia vào cuộc chơi thổi lửa này thu lời rất lớn, nhưng
nhiều người đang phải trả giá đắt trong tuần vừa
qua khi dùng đòn bẩy tài chính quá lớn. Tức là chính
các nhà đầu tư lớn, các công ty chứng khoán cho sử
dụng đòn bẩy tài chính cao lại nhảy vào đám lửa do
chính mình đã thổi bùng lên trước đó.
Nhưng thiệt thòi nhất vẫn là
nhà đầu tư nhỏ lẻ, thiếu thông tin - đối tượng
chiếm đa số trên thị trường hiện nay. Họ phải trả
giá trước tiên là cho sự thiếu hiểu biết và lòng tham
của mình, sau đó là trả giá cho lợi nhuận "khủng”
của những nhà đầu tư lớn và khoản phí tăng lên của
một số công ty chứng khoán cũng như sự gia tăng thị
phần môi giới của những công ty này.
Sau một thời gian dài trầm lắng, làn sóng chia cổ phiếu thưởng lại xuất hiện trở lại trên thị trường chứng khoán.
Nhiều nhà đầu tư - dù trước đó đã thua lỗ đến sạt nghiệp - vẫn đua theo trào lưu và quên luôn bài học “vỡ lòng” về đầu tư đó.
Các
doanh nghiệp khi chọn hình thức chia thưởng cổ phiếu có muôn vàn lý do.
Có doanh nghiệp chia thưởng trong năm 2009 nhằm hỗ trợ cổ đông không
phải chịu thuế thu nhập cá nhân. Nhưng cũng có những doanh nghiệp chọn
hình thức này để tăng vốn điều lệ, từ đó tăng năng lực tài chính và có
cơ hội tiếp cận khoản vay lớn hơn để thực hiện các dự án lớn...
Còn
về phía thị trường, nhất là trong giai đoạn thị trường khởi sắc, thông
tin chia thưởng cổ phiếu được xem như một lực đỡ quan trọng cho giá
chứng khoán tăng hàng ngày.
Đối
với những cổ phiếu có thị giá cao, việc chia tách sẽ gia tăng tính
thanh khoản do giá cổ phiếu đã được điều chỉnh giảm theo tỷ lệ chia
thưởng. Những nhà đầu tư ít vốn sẽ có cơ hội đầu tư khi có cảm giác cổ
phiếu đã rẻ đi. Việc cho phép nhiều nhà đầu tư có mức tiền vừa phải sẽ
tham gia nhiều hơn, làm tăng cầu chứng khoán và khi cầu chứng khoán
tăng sẽ tác động làm tăng giá chứng khoán.
“Trong
chừng mực nào đó, việc phát hành cổ phiếu thưởng giống như doanh nghiệp
chia nhỏ cổ phần để giá mỗi cổ phiếu sau khi chia nhỏ sẽ giảm xuống,
tạo tính thanh khoản trên thị trường. Thưởng cổ phiếu là một nghiệp vụ
làm tăng số lượng cổ phiếu, chứ không làm gia tăng giá trị vốn cổ phần.
Nói cách
khác, về phương diện hạch toán kế toán, đó chẳng qua là một bút toán
chuyển từ tài khoản thặng dư vốn - capital surplus (có công ty lấy từ
quỹ đầu tư phát triển) sang vốn điều lệ (capital stock - tính trên mệnh
giá) của bảng cân đối kế toán một công ty. Như vậy, việc tăng giá từ
thông tin này cũng chỉ dừng lại ở một mức độ hợp lý nhờ tính thanh
khoản của cổ phiếu cao hơn trước”, một chuyên gia chứng khoán cho biết.
Dễ gây hiểu lầm
Theo
ông Lưu Trung Dũng, sáng lập viên Công ty Cổ phần Đào tạo và Tư vấn đầu
tư (DoBF), khái niệm “cổ phiếu thưởng” bấy lâu cũng đã gây hiểu lầm đối
với nhiều người ngay cả trong giới đầu tư. Tuy nhiên, về lâu về dài
cũng nên có một khái niệm thích hợp hơn để gọi số cổ phiếu này.
Khi
thưởng cổ phiếu cho cổ đông, doanh nghiệp thường sử dụng dùng nguồn
hình thành từ vốn thặng dư (số tiền chênh lệch giữa giá bán và mệnh giá
khi doanh nghiệp phát hành cổ phiếu tăng vốn điều lệ) và lợi nhuận tích
lũy lại qua các năm (giống như khi trả cổ tức bằng cổ phiếu) để chuyển
thành vốn điều lệ. Số lượng cổ phiếu của doanh nghiệp tăng lên đồng
nghĩa với việc vốn điều lệ tăng lên nhưng giá trị của doanh nghiệp vẫn
giữ nguyên bởi nguồn thặng dư vốn và lợi nhuận giữ lại bị giảm đi tương
ứng.
Điều đó
cho thấy rằng, giá trị tài sản của mỗi cổ đông cũng không hề tăng lên,
mặc dù số lượng cổ phiếu trong tài khoản của mình tăng lên. Việc doanh
nghiệp công bố thưởng cổ phiếu cho cổ đông chính là dùng tài sản của cổ
đông thưởng cho chính các cổ đông đó. Mà doanh nghiệp là của các cổ
đông. Nên, nhìn từ góc độ cổ đông thì đó là việc “tự thưởng”, bớt một
phần tài sản của mình để thưởng lại cho mình.
Vì
lẽ đó, nên ngay sau ngày chốt danh sách để nhận cổ phiếu thưởng, sở
giao dịch chứng khoán luôn điều chỉnh giá tham chiếu của cổ phiếu giảm
tương ứng để giá trị tài sản mà nhà đầu tư có trước và ngay sau thời
điểm chốt danh sách nhận thưởng không hề thay đổi.
Ông
Dũng cũng đưa ra một ví dụ cụ thể như: doanh nghiệp thông báo thưởng cổ
phiếu cho cổ đông với tỷ lệ 1:1, cổ đông sở hữu 1 cổ phiếu được thưởng
thêm 1 cổ phiếu. Giá cổ phiếu tại ngày giao dịch chốt quyền nhận thưởng
là 20.000 đồng/cổ phiếu. Vào ngày giao dịch hôm sau, giá tham chiếu của
cổ phiếu không phải là 20.000 đồng mà sẽ được sở/trung tâm giao dịch
điều chỉnh xuống còn 10.000 đồng/cổ phiếu.
“Việc
này được hình dung như cắt một cái bánh làm đôi, giữ phần bên trái và
cầm phần bên phải lên, rồi đặt lại chính vị trí cũ”, ông Dũng nói.
Nên lưu ý điều gì?
Cuối
tháng 10 vừa qua, Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính (VAFI) đã công bố
một bản báo cáo đánh giá các tác động của việc chia cổ phiếu thưởng
hiện nay trên thị trường. Theo VAFI, khi hội đồng quản trị quyết định
tăng vốn điều lệ bằng hình thức trả cổ tức bằng cổ phiếu hay chia cổ
phiếu thưởng thì doanh nghiệp đó phải thực sự còn nhiều tiềm năng phát
triển ở những ngành nghề kinh doanh cốt lõi.
Ngoài
ra, việc chia cổ phiếu thưởng hay trả cổ tức bằng cổ phiếu như là một
cách để doanh nghiệp tránh bị “nhòm ngó” và mang tiếng trả cổ tức tiền
mặt cực kỳ cao. Theo thống kê của VAFI, đối với những loại cổ phiếu
tăng trưởng liên tục, nếu doanh nghiệp không thực hiện tăng vốn điều lệ
theo hình thức trả cổ phiếu thưởng hay trả cổ tức bằng cổ phiếu thì tỷ
lệ trả cổ tức bằng tiền mặt có thể sẽ lên tới 500%, thậm chí là 1.000%,
2.000%...
“Trên
thực tế chúng ta ít gặp những mức chia cổ tức này tại các công ty đại
chúng, nếu doanh nghiệp nào thực hiện thì sẽ bị nổi tiếng ngay, đi cùng
với sự “nổi tiếng”, có thể kèm theo sự chú ý và phiền toái”, đại diện
VAFI giải thích thêm.
Bên
cạnh đó, theo VAFI vẫn có những doanh nghiệp lợi dụng việc chia thưởng
cổ phiếu để làm giá. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư phải hết sức
lưu ý bởi doanh nghiệp khó có thể tiếp tục tăng trưởng trong tương lai
hoặc tỷ lệ tăng trưởng hàng năm thấp do điều kiện khách quan hoặc do
trình độ quản trị doanh nghiệp như: doanh thu lợi nhuận không tăng hoặc
tăng ở tỷ lệ thấp, đồng
... Read more »
Không
chỉ nổi tiếng với biệt hiệu “nhà tiên tri của Omaha”, Buffett còn được
xem là một hiệp sỹ khi bơm tiền vào ngân hàng Goldman Sachs ngay ở thời
kỳ cao điểm của lần khủng hoảng tài chính này - Ảnh: Reuters.
Các quy tắc trong đầu tư của Buffett luôn được các nhà đầu tư khắp nơi coi như những bài học nằm lòng
Thành
công vượt trội trong sự nghiệp tài chính của tỷ phú Warren Buffett,
người giàu thứ nhì thế giới hiện nay, khiến các quy tắc trong đầu tư
của ông luôn được các nhà đầu tư khắp nơi coi như những bài học nằm
lòng.
Hãng tin BBC của Anh đã liệt kê những câu nói nổi tiếng nhất và một số vụ đầu tư thành công nhất của nhà đầu tư huyền thoại này.
Một số quy tắc của Buffett
- Nguyên tắc số 1: Không bao giờ để mất tiền. Nguyên tắc số 2: Không bao giờ quên nguyên tắc số 1.
- Biết sợ hãi khi kẻ khác tham lam, và biết tham lam khi kẻ khác sợ hãi.
-
Sẽ tốt hơn rất nhiều nếu mua một công ty tuyệt vời ở một mức giá vừa
phải, thay vì mua một công ty vừa phải với một mức giá tuyệt vời.
- Dù đó là tất (socks) hay cổ phiếu (stocks), thì tôi cũng thích mua thứ hàng chất lượng khi mặt hàng đó giảm giá.
- Giá cả là thứ mà bạn trả. Giá trị là thứ mà bạn nhận.
- Người ta mất cả đời để xây dựng danh tiếng, nhưng để hủy hoại danh tiếng thì chỉ mất 5 phút.
- Sẽ là vô giá nếu trong khủng hoảng, ta vừa có tiền lại vừa có lòng dũng cảm.
- Đừng bao giờ đầu tư vào một lĩnh vực mà bạn không thể hiểu nổi.
-
Chỉ mua vào một thứ gì đó nếu bạn chắc chắn là sẽ cảm thấy hoàn toàn
yên tâm với thứ đó dù cho thị trường có đóng cửa tới 10 năm.
- Hôm nay, họ được ngồi dưới bóng mát, vì cách đây đã lâu, họ trồng cây.
- Rủi ro đến từ việc bạn không biết mình đang làm gì.
- Nếu bạn thấy không thoải mái nếu nghĩ tới chuyện giữ một thứ gì đó trong 10 năm, thì đừng giữ thứ đó quá 10 phút.
- Nếu một lĩnh vực làm ăn tốt, thì giá cổ phiếu của lĩnh vực đó kiểu gì cũng sẽ lên theo.
- Tôi sẽ chẳng ngại đi tù, nếu như trong phòng giam, tôi có ba người bạn tù biết chơi bài.
-
Sự thật về việc con người ta sẽ chất đầy nỗi tham lam, sợ hãi hay điên
rồ là có thể đoán trước. Chỉ có hậu quả là không thể lường được.
Những vụ đầu tư nổi tiếng nhất
Berkshire Hathaway (1965)
Berkshire
Hathaway là một nhà máy dệt thành lập vào năm 1839. Đến thập niên 1950,
nhà máy này đã trở thành một công ty với 15 nhà máy và 12.000 công
nhân. Từ năm 1962, Buffett đã bắt đàu mua cổ phiếu của Berkshire
Hathaway và tới năm 1965 thì nắm giữ cổ phần đa số tại công ty này.
Đến
năm 1985, do không cạnh tranh nổi với các nhà máy dệt ở nước ngoài,
Buffett đóng cửa toàn hoạt động sản xuất của Berkshire Hathaway, nhưng
giữ lại cái tên của công ty này cho “đế chế” đầu tư của ông.
Buffett
luôn tự hào khi cho rằng, Berkshire Hathaway là một trong những quyết
định đầu tư sáng suốt nhất của ông. Khi Buffett bắt đầu mua cổ phiếu
của Berkshire Hathaway, giá cổ phiếu này khi đó là 7,6 USD/cổ phiếu.
Còn ngày nay, tập đoàn đầu tư này có giá khoảng 100.000 USD/cổ phiếu.
Geico (1951-1996)
Benjamin
Graham, một cố vấn của Buffett, đầu tư vào công ty bảo hiểm Geico. Vào
năm 1951, khi tới thăm công ty này tại Washington cùng Graham, Buffett
bắt đầu mua cổ phiếu Geico. ... Read more »
Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính Ngân sách Quốc hội
Phùng Quốc Hiển cho biết "Khả năng thông qua gói kích cầu là chắc chắn,
vì xu thế là mọi người đều đồng thuận."
Bên
lề phiên họp tổ chiều 26/10, theo phản ánh trên Vnexpress, Chủ nhiệm Ủy
ban Tài chính Ngân sách Quốc hội Phùng Quốc Hiển cho biết kích thích
kinh tế sẽ là một nội dung được đưa vào nghị quyết về dự toán ngân sách
nhà nước 2010 dự kiến được Quốc hội bàn thông qua vào ngày 10/11 tới.
Ông
Hiển cho biết các biện pháp kích thích cho năm 2010 là cần thiết vì
kinh tế vẫn chưa thực sự trở lại bình thường sau cuộc suy thoái toàn
cầu. Biện pháp có thể không cấp bách như 2009 mà sẽ đi vào chiều sâu,
dài hơi hơn, tập trung cho các lĩnh vực quan trọng. Ông
Phùng Quốc Hiển cũng cho biết, "hình thù" của gói thứ hai theo đề nghị
của Chính phủ cũng như các ủy ban Quốc hội cũng đã rất rõ. Thứ nhất là
nguồn trái phiếu chính phủ, khoảng 56.000 tỷ đồng. Thứ hai là nguồn bù
lãi suất, tổng bù lãi suất của năm 2009 khoảng 17.000 tỷ, mới dùng
10.000 tỷ đồng, phần còn lại sẽ tiếp tục sử dụng. Tính cả phần đầu tư
phát triển 125.000 tỷ, tổng gói kích cầu thứ hai sẽ vào khoảng gần
200.000 tỷ.
"Khả
năng thông qua gói kích cầu là chắc chắn, vì xu thế là mọi người đều
đồng thuận. Mọi người đều thấy nền kinh tế của ta chưa thấy hoàn toàn
bình phục", ông Hiển cho biết
Theo
ông Hiển, việc có hay không có gói kích cầu thứ hai, về nguyên tắc
không ảnh hưởng gì tới thị trường chứng khoán và nếu nhà đầu tư mua vì
kỳ vọng có gói kích cầu thứ hai thì thực sự nguy hiểm. "Chúng ta nên kỳ
vọng một nền kinh tế khỏe mạnh, đừng kỳ vọng cho nền kinh tế ốm yếu rồi
chờ Chính phủ kích thích cho nó trở lại bình thường. Tư duy như vậy
không chuẩn, bởi kích cầu hay kích thích cũng chỉ là ngắn hạn, gắn với
những khó khăn kinh tế. Các nhà đầu tư nên nhìn vào dài hạn, kỳ vọng
vào tương lại lành mạnh".
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước khuyến cáo các nhà đầu tư cần cẩn trọng với các tin đồn trên thị trường.
Vừa qua, trên thị
trường chứng khoán xuất hiện một số tin đồn với
nội dung: “Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước sẽ công bố
thông tin rất xấu về thị trường trong thời gian tới
và kèm theo khuyến nghị nhà đầu tư nên xả hàng”. Uỷ
ban Chứng khoán Nhà nước xin thông báo những thông tin
này là không chính xác và không chính thức.
Ủy ban Chứng khoán
Nhà nước cũng khuyến cáo các nhà đầu tư cần cẩn
trọng với các tin đồn trên thị trường.
Phiên giao dịch 23/10 gây choáng váng cho thị
trường được cho là xuất phát từ một tin đồn gói kích cầu 2 không được
thông qua, xuất hiện giữa phiên giao dịch.
Diễn
biến giao dịch trong phiên đã khiến các nhiều nhà đầu tư đi từ tâm lý
bất ngờ sang lo sợ. Trong 90 phút đầu giờ, hoạt động mua, bán của thị
trường diễn ra rất thuận lợi. Sự nhiệt tình của người mua đã có lúc đẩy
VN-Index chạm tới ngưỡng 633 điểm
Tuy nhiên khoảng gần 10 giờ,
áp lực cung mỗi lúc một tăng cuốn trôi phăng dòng lệnh chào mua. Các
mức giá giao dịch vì thế mà giảm dần, một số mã thậm chí giá giao dịch
rơi từ mức chạm trần xuống nện sàn.
Đảo lộn vì một tin nhắn
Theo
anh Nguyễn Anh Dũng, chuyên gia tư vấn đầu tư độc lập: “Thời điểm giữa
phiên, nhiều nhà đầu tư lớn trên thị trường và cả một số nhà quản lý
tại các công ty chứng khoán bất ngờ nhận được tin nhắn, nội dung thông
báo về gói kích cầu hai sẽ không có”.
Là một người thạo tin
nhưng anh Dũng đã cảm thấy rối trí trước thông tin trên khi mà sự bán
tháo trên thị trường đến một cách bất ngờ và mạnh mẽ.
Ông Nguyễn
Quang Bảo, Phó tổng giám đốc công ty chứng khoán Bản Việt, cũng công
nhận đã có thông tin như thế gửi cho mình. Song, ông Bảo cho rằng loại
tin đồn như vậy trên thị trường có rất nhiều và không có cơ sở nên
không đáng quan tâm. Không loại trừ khả năng, có những nhóm đầu tư lớn
tung tin nhằm mục đích đánh thị trường xuống để trục lợi.
Tuy nhiên, ông Bảo thừa nhận nếu thông tin trên là có thật thì tầm ảnh hưởng của nó tới tâm lý nhà đầu tư cũng là rất lớn.
Sốc bởi tin đồn
Anh
Nguyễn Khắc Duẩn, chuyên gia phân tích công ty Tư vấn và Đầu tư
S&D, cho rằng nếu không có thông tin đột ngột thì có thể lực mua đã
giữ được thị trường và chứng khoán có một kết thúc tuần giao dịch hoàn
hảo.
Thống kê quy mô đặt lệnh trong phiên, tổng khối lượng đặt
mua là 188,99 triệu chứng khoán, giảm 1,13% so với ngày giao dịch
trước. Trong khi đó, tổng khối lượng đặt bán lên tới 217,188 triệu
chứng khoán, tăng tới 60,13% so với phiên trước đó.
Vì không
nhận được tin đồn, anh Vũ Quang Vịnh, chuyên gia phân tích độc lập tỏ
ra ngỡ ngàng trước những diễn biến của thị trường trong phiên.
Với
thống kê có được, anh Vịnh cho rằng cuối phiên các nhà đầu tư lớn bán
ra là chủ yếu và nhiều chuyên gia môi giới chứng khoán cũng đang cấp
tốc bán tháo theo xu thế thị trường.
Thông tin từ phía nhà quản lý
Mới
đây trả lời báo chí bên lề kỳ họp quốc hội, Bộ trưởng Bộ Tài chính Vũ
Văn Ninh đã bày tỏ quan điểm nên duy trì gói kích cầu để kích thích nền
kinh tế.
Trước đó, ngày 15/10 tại một Hội thảo của Phòng
Thương mại châu Âu (Eurocham), Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc
gia Lê Đức Thúy cho hay "Hội đồng tư vấn tài chính tiền tệ có có 3
thành viên đề xuất việc này, 7 thành viên khác ủng hộ và khuyến nghị ấy
của hội đồng được Thủ tướng chấp nhận đồng thời đề nghị các bộ ngành
liên quan nghiên cứu, trình lên cách thức giải quyết".
Tuy nhiên
ông Thúy khẳng định: "Cần hỗ trợ, nhưng không nên chọn giải pháp là trợ
cấp lãi suất ngắn hạn cho doanh nghiệp như vừa qua". Như vậy, các thông tin về gói kích cầu hai vẫn còn đang trong giai đoạn được các nhà quản lý vĩ mô xem xét và bàn thảo.
Sự
vội vã tháo chạy trên thị trường như vừa qua đã khiến "người mua choáng
váng mà người bán có khi cũng choáng váng trước những “hậu quả” mà mình
gây ra”, IRS nhận định./.
Việc lạm phát tăng mạnh sẽ khó xảy ra trong năm 2009, tuy nhiên rủi ro này sẽ gia tăng vào năm 2010.
TTCK
đang trên đà phục hồi mạnh mẽ, nhưng sự ổn định của nó còn phụ thuộc
vào sự hồi phục chung của nền kinh tế. Công ty Chứng khoán Sài Gòn - Hà
Nội (SHS) vừa đưa một số phân tích với chủ đề: “Việt Nam - Những thách
trên đường phục hồi”, trong đó phân tích những về các vấn đề lớn mà nền
kinh tế sẽ vượt qua trên đà hồi phục kinh tế.
Thách thức 1: Vấn đề thâm hụt thương mại
SHS
cho rằng, Việt Nam kiểm soát được thâm hụt thương mại trong năm 2009,
2010 và giữ ổn định tỷ giá VND/USD theo hướng giảm giá dần đồng VND
trong biên độ cho phép (5-7%). Vì vậy, rủi ro về phá giá và khủng hoảng
tiền tệ, khủng hoảng cán cân thanh toán là không lớn trong năm 2009.
Điều này dựa trên các yếu tố sau:
1.
Hàng hóa có tỷ trọng nhập khẩu lớn như phôi thép, phân bón, dầu và các
sản phẩm dầu, lúa mì... đã giảm giá đáng kể so với năm 2008.
2.
Một số chính sách hỗ trợ xuất khẩu như hỗ trợ lãi suất, xúc tiến thương
mại... và biện pháp hạn chế nhập khẩu như tăng thuế, sử dụng hàng rào
kỹ thuật, dùng hạn ngạch, ưu tiên bán ngoại tệ cho nhóm ngành cần
thiết…có tác dụng thu hẹp khoảng cách xuất, nhập khẩu.
3. Có thể sử dụng biện pháp kết hối, yêu cầu các doanh nghiệp xuất khẩu phải bán lại cho ngân hàng thương mại.
4.
Phát hành thêm trái phiếu ngoại tệ ở trong nước. Các đợt phát hành trái
phiếu ngoại tệ gần đây khá thành công là tín hiệu tốt để cân đối cung
cầu ngoại tệ trong nước.
5. Thực hiện hoán đổi ngoại tệ giữa ngân hàng thương mại và Ngân hàng Nhà nước.
6. Thị trường tự do đang được kiểm soát khá tốt, các đợt biến động tỷ giá không quá lớn và theo khá sát tỷ giá chính thức.
7.
Có thể được hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế như IMF, vay ODA, vay nước
ngoài (các nước ASEAN có quỹ hỗ trợ chống khủng hoảng tiền tệ và nhiều
quốc gia có thặng dư USD cùng với xu hướng USD giảm giá nên khả năng
vay được là rất cao).
8.
Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (hot money) có xu hướng chảy vào các
thị trường mới nổi nhằm tận dụng chênh lệch lãi suất và thị trường cổ
phiếu hỗ trợ giảm bớt áp lực tỷ giá.
9. Giá hàng hóa xuất khẩu như: cao su, dầu mỏ, cà phê... tăng giá tương đối so với Q1 hỗ trợ thêm cho nguồn thu ngoại tệ.
10. Nguồn vốn FDI chững lại so với năm 2007, nhu cầu nhập khẩu để đầu tư tài sản cố định chưa hoàn toàn hồi phục.
Vì
vậy, SHS cho rằng, thâm hụt thương mại của Việt Nam sẽ không vượt quá
10 tỷ USD trong năm 2009, tỷ giá dao động ở mức biên độ 5%-6% là ngưỡng
khá an toàn cho môi trường kinh doanh và đầu tư.
Thách thức 2: Lạm phát kỳ vọng
Chúng
tôi cho rằng, lạm phát của nền kinh tế phụ thuộc vào các yếu tố chính
sau: diễn biến giá cả thế giới, chính sách tiền tệ và chính sách tài
khóa.
Việt Nam có độ
mở xếp thứ năm thế giới (sau Singapore, Hồng Kông, Malaysia, Bỉ) với
kim ngạch xuất nhập khẩu chiếm tới xấp xỉ 160% GDP, vì vậy, lạm phát
nhập khẩu có vai trò quan trọng trong chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của
Việt Nam.
Giá dầu
tuy đã tăng lên gần 100% vào quý II/2009 so với đầu năm nhưng nhiều khả
năng duy trì ở mức 60 – 70 USD/thùng trong năm 2009 do nhu cầu giảm sút
và đà hồi phục của nền kinh tế thế giới cần thời gian từ 1- 2 năm.
Giá
hàng hóa và nguyên liệu cơ bản tuy tăng so với đầu năm nhưng còn ở mức
thấp so với năm 2008 và dự đoán có thể sẽ còn giảm do nhu cầu yếu trong
nửa cuối năm 2009. Như vậy, giá cả thế giới theo chúng tôi chưa phải là
áp lực lớn cho lạm phát trong năm 2009.
Lợi
suất trái phiếu kỳ hạn một năm khoảng 9,3% (giá thấp nhất của đợt đấu
thầu trái phiếu chính phủ thời hạn hai năm ở quanh mức 9%), mức lãi
suất này ít nhất phải bù đắp được cho lạm phát để đảm bảo lãi suất thực
dương.
Lãi suất huy
động tại các ngân hàng cũng tăng lên ở các kỳ hạn dài. Đây là dấu hiệu
cho thấy lạm phát kỳ vọng của dân cư đã cao hơn. Theo chúng tôi, tác
động của chính sách tiền tệ nới lỏng để đối phó khủng hoảng sẽ rõ hơn
vào năm 2010 và thể hiện cụ thể trước áp lực lạm phát.
Thu
ngân sách Nhà nước dự toán 2009 khoảng 390.000 tỷ đồng, tức là bản thân
thu dự toán giảm 9.000 tỷ đồng so với năm ngoái. Theo báo cáo của Ngân
hàng Thế giới (WB), thâm hụt ngân sách của Việt Nam 2009 có thể lên tới
8,3% so với 4,5% của năm 2008. Do sức ép của 143.000 tỷ đồng kích cầu
lên ngân sách chiếm 8,7% GDP trong năm 2009, Việt Nam sẽ gặp khó khăn
trong triển khai những gói kích cầu mới quy mô lớn.
Xét
trong cả năm 2009 và dựa vào tác động của các nhóm yếu tố, chúng tôi
đánh giá, CPI sẽ tiếp tục tăng và mức tăng về cuối năm, nhưng vẫn ở
dưới 1%/tháng do lượng cung tiền tuy tăng nhưng không tập trung vào một
thời điểm như năm 2007.
Nguy
cơ lạm phát trở lại mốc cao sẽ bộc lộ rõ hơn vào năm 2010 sau khi chính
sách tiền tệ, tài khóa đã phát huy mạnh mẽ vào nền kinh tế.
Một
mặt khác, đợt suy thoái kinh tế toàn cầu sẽ cần một thời gian để hồi
phục. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, việc lạm phát tăng mạnh sẽ khó xảy ra
trong năm 2009, tuy nhiên rủi ro này sẽ gia tăng vào năm 2010.
Đa số các cổ phiếu mới tham gia niêm yết đều có chuỗi tăng giá mạnh - một hiện tượng nhưng không hẳn mang tính “phong trào”...
Gần
đây hầu hết các cổ phiếu mới tham gia niêm yết đều có chuỗi tăng giá
mạnh - một hiện tượng nhưng không hẳn mang tính “phong trào” Thị
trường chứng khoán phục hồi mạnh, tạo môi trường thuận lợi để nhiều
doanh nghiệp tiến hành niêm yết cổ phiếu. Ngược lại, hoạt động niêm yết
mới sôi động trở lại cũng tạo thêm nguồn hàng và nhiều lựa chọn cho nhà
đầu tư. Nổi bật trong hai tháng gần đây là những kết quả rất thành công
của hoạt động này.
Chào sàn là… thắng
Không
tuyệt đối, nhưng đó là kết quả của đa số mã mới tham gia niêm yết. Theo
thống kê của Công ty Chứng khoán Tân Việt (TVSI), trong hai tháng gần
đây, số lượng công ty chào sàn đã lên tới 24, trong đó có đến 16 trường
hợp giá liên tiếp tăng kịch trần kể từ phiên giao dịch đầu tiên.
Điển
hình là các mã thuộc nhóm bất động sản (VPH, VNI, DIG, LGL), sản xuất
các sản phẩm từ cao su (CSM, RDP, SRC), thủy sản (ATA, AAM), thép (PHT)
và gas (VMG). Hiện tượng sau chào sàn chỉ biết tăng trần và không chịu
bán như ở HCM (Công ty Chứng khoán Tp.HCM) hay CSM (Cao su miền Nam)
trước đó cũng đã bắt đầu có ở SRC của Cao su Sào vàng với 3 phiên kịch
trần chỉ với 50 đơn vị chịu bán (theo giao dịch khớp lệnh), hoặc nhiều
mã chỉ có khối lượng chưa đầy 1% lượng niêm yết…
Theo
bà Phạm Thị Vân Hà, Trưởng phòng Nghiên cứu và Phân tích đầu tư TVSI,
nguyên nhân trước hết của những thành công trên là hai tháng gần đây
thị trường đón những yếu tố tích cực từ các chỉ số kinh tế vĩ mô, với
các dự báo tích cực của các chuyên gia kinh tế và các tổ chức tài chính
quốc tế (World Bank, Economist Intelligent Unit, Standard Chartered
Bank, HSBC).
Cụ
thể hơn, bà Hà cho rằng các công ty có cổ phiếu tăng trần đều là nằm
trong những ngành “hot” trên thị trường như bất động sản, sản xuất cao
su, thép và gas. “Các công ty này có lợi thế từ việc các “anh chị”
trước đó có kết quả kinh doanh rất khả quan và tốt, ngoài ra với các
doanh nghiệp bất động sản còn có quỹ đất nhiều nhất trong ngành ở vị
trí thuận lợi (DIG) trong khi VPH, VNI đều đang triển khai dự án ở
những vị trí đắc địa trung tâm thành phố và khu dân cư sầm uất”, bà Hà
nói.
Những
công ty này còn nằm trong ngành hưởng lợi trực tiếp từ gói kích cầu bao
gồm hỗ trợ lãi suất và giảm thuế như thép, xây dựng hạ tầng kĩ thuật,
sản xuất cao su và nhựa và thủy sản. Đặc biệt các doanh nghiệp thủy sản
với thông tin giá và khối lượng xuất sang EU và Mỹ tăng trong quý 3 và
quý 4 sẽ làm doanh thu xuất khẩu và lợi nhuận tăng mạnh - một yếu tố
hết sức thuận lợi cho việc chào sàn.
Ngoài
ra, dòng tiền trong hai tháng gần đây tăng trưởng khá đều và bền vững,
giao dịch trung bình từ 3.000 – 6.000 tỷ đồng/ngày, hai chỉ số chính
đều có xu hướng tăng dài hạn đã tạo tâm lý lạc quan và tin tưởng cho
nhà đầu tư. “Nhà đầu tư sẽ rình những cổ phiếu chào sàn với giá “rẻ
tương đối” để lao vào mua. Như vậy, hiệu ứng đám đông cũng thể hiện rõ
ở nhóm cổ phiếu này”, bà Hà nhận định.
Đòn bẩy của giá chào sàn
Nhìn
lại diễn biến trên, TS. Quách Mạnh Hào, Phó tổng giám đốc Công ty Chứng
khoán Thăng Long (TSC), cho rằng cần nhìn nhận ở một số nguyên nhân,
yếu tố mang tính đòn bẩy. Đó là tính thời điểm và mức giá chào sàn.
“Yếu
tố chủ yếu đóng góp vào sự thành công của các cổ phiếu chào sàn là xu
thế chung của thị trường. Thị trường tăng thì nhìn chung các cổ phiếu
đều tăng. Tuy vậy, yếu tố giá khởi điểm khi chào sàn cũng đóng vai trò
quan trọng. Nhìn chung các doanh nghiệp đã rút kinh nghiệm rất nhiều
trong việc đưa ra mức giá khởi điểm, họ đã thực sự có cân nhắc. Tuy
nhiên, điều này lại dường như không đúng với những doanh nghiệp cổ phần
chuyển đổi từ sở hữu nhà nước trước đây như VCB hay CTG”, ông Hào phân
tích.
Về
yếu tố giá khởi điểm, chuyên gia của TSC cho rằng đó là điều kiện quan
trọng để tạo ra sức hút của cổ phiếu trong những ngày đầu mới niêm yết.
Những cổ phiếu có giá khởi điểm được xác định quá cao so với kỳ vọng
chung của thị trường thường được các nhà đầu tư nhìn nhận rằng đó là cơ
hổi để “xả hàng” của những cổ đông hiện hữu và điều đó tạo ấn tượng
không tốt với đội ngũ quản trị. Ngược lại, với những công ty đưa ra giá
khởi điểm thấp hơn kỳ vọng thị trường, các nhà đầu tư đón nhận tích cực
bởi đó là thông điệp thể hiện rằng doanh nghiệp đang được chèo lái bởi
những con người gắn bó với công ty.
“Hãy
lưu ý rằng giá khởi điểm khi niêm yết chỉ có vai trò giải quyết vấn đề
“lãi vốn” cho những cổ đông hiện hữu (nếu có), chứ không giải quyết
được vấn đề thặng dư vốn như lúc chào bán ra công chúng vốn được cho là
có lợi cho doanh nghiệp.
Tôi
nhận thấy rằng các mức giá khởi điểm khi niêm yết đưa ra đều đã trở lại
mức hợp lý, thậm chí ở mức thấp. Đây là một chuyển biến tích cực, bởi
theo quan điểm của tôi, điều này thể hiện mức độ cam kết của những
người lãnh đạo với công ty và như thế sẽ tạo ra giá trị bền vững cho
công ty về lâu dài”, TS. Hào bình luận.
Về
mức giá khởi điểm, Trưởng phòng Phân tích TVSI cũng nhận định là ở
những trường hợp trên có thể thấy giá chào sàn nhìn chung thấp hơn so
với giá của các công ty trong ngành với quy mô và tiềm năng tương
đương. Ví dụ, DIG khi chào sàn giá là 55.000 đồng, trong khi đó HAG và
SJS đã ở mức giá là 112.000 đồng và 152.000 đồng. Tương tự, giá chào
sàn của CSM và SRC là 42.000 đồng, trong khi DRC đang ở mức giá 122.000
đồng... Tất nhiên, ở đây cần so sánh chi tiết các chỉ số cơ bản. Và
theo quan sát của bà Vân Hà, “nhà đầu tư lại là người rất “thính” và so
sánh nhanh, nên họ đã tìm cách chuyển hướng đầu tư vào những cổ phiếu
mới này”.
Tuy nhiên, khuyến nghị mà đại diện TVSI đưa ra là khi tiếp cận với những cổ phiếu mới, nhà đầu tư cần lưu ý một số vấn đề sau:
Ưu điểm của việc này so với việc chia cổ tức bằng tiền mặt rồi do đó tăng vốn bằng cách phát hành thêm cổ phiếu? Lợi ích của cổ đông
thay đổi như thế nào đối với hai phương án chia cổ tức : bằng tiền mặt
và bằng cổ phiếu? * Bất cứ ngân hàng nào nếu muốn tăng vốn điều lệ cũng
áp dụng được phương án này hay phải có điều kiện gì?
Hamy Có ích: 1/1 . Mọi thứ trên đời đều có thể giải quyết (tôi đang nói tới kinh
doanh), vấn đề là bao nhiêu thôi. Việc các cổ đông hiện tại được mua
cổ phần tương ứng với tỷ lệ họ đang có chính là "quyền lợi" rồi, và
đương nhiên, cổ phần mua mới này ở mức giá mà các cổ đông hiện tại nhất
trí với nhau: giá nội bộ. Tuy vậy, giả sử ngân hàng đang có mức vốn
1.000 tỷ và đang lãi 500 tỷ. Có 2 cổ đông, mỗi người giữ 500 cổ phần,
mỗi cổ phần có giá trị 1 tỷ (tất cả đều là giả sử để bán dễ hình dung).
Nếu capitalize hết phần lãi 500 tỷ nói trên, thì có nhiều phương án xảy
ra, do chính 2 ông cổ đông này tự thống nhất bằng một cuộc họp ở Café
Illy góc Hàn Thuyên (TP.HCM). Hai ông có thể nhất trí rằng, mỗi ông cầm
thêm 250 cổ phần nữa, ở mức giá cũ 1 tỷ/1 CP. Thế nhưng 2 ông cũng có
thể nhất trí rằng, tớ với bác mỗi chú chỉ cần cầm thêm 200 cổ phần nữa
thôi, theo tỷ lệ tương ứng, và 100 CP dư ra trong số 500 kia, chúng
mình thử xem cái xã hội đang ngập trong cơn sốt CP này nó xử lý giá thế
nào. Vậy là mỗi ông không có gì mất công bằng và đem bán cái 100 CP dư
ra kia. Khi này, đồng bào mình đang hăng hái, nên trả riêng 100 CP đó
đã là 500 tỷ, tức là bằng cả cái tích sản từ lãi sau thuế kia rồi. Thế
thì 2 bác cổ đông đem 500 đó chia đôi cho nhau mang về nhà cất đi, vì
đó là phần của các bác đấy chứ. Nó là thặng dư vốn. Phần các cổ đông
mới xúm vào trả tới 500, thì cũng chỉ là để ôm lấy 100 mệnh giá của các
bác cũ mà thôi.Ở một phương án khác, các bác chia đủ hết số 500 kia
rồi, mỗi bác cầm trọn 250. Ngân hàng vẫn thòm thèm, các bác bảo, giờ
phát hành tiếp thêm 1.000 CP mới bổ sung, chúng tớ sẽ mua theo tỷ lệ
thế này, nhưng giá đợt tới là 2 tỷ/CP cho riêng chúng tớ, các cậu ngoài
đường tự tính rồi vào đấu nhau nhé! Khi đó câu chuyện sẽ còn phức tạp
nữa. Tuy vậy, các quyết định quan trọng nhất trong việc đồng ý này là
của HĐQT và Đại hội cổ đông. Thường thì phương án do HĐQT trình lên, và
ĐH Cổ đông phê chuẩn. Nhưng HĐQT thường quyền lực quá, giàu quá và
nhiều thông tin quá, cổ đông nhỏ và lẻ tẻ biết làm sao khác ngoài việc
đồng ý 101%? Các cấu trúc tài chính thường muôn hình vạn trạng. Một câu
hỏi và một thắc mắc không bao giờ đi đến cùng được câu chuyện này.
Nhưng ta chỉ cần nhớ rằng quyền lực ở trong tay những người nắm giữ
nhiều của cải, tỷ trọng lớn, và nhiều thông tin. Vì thế mà việc xử lý
các xung đột đang ngày càng trở thành mối quan tâm lớn nhất của mọi xã
hội hiện đại, nhất là liên quan tới cổ phiếu. Bạn thấy không, nếu bạn
biết rõ và tường tận mọi thứ, việc có thể "xử ép" bạn sẽ vô cùng khó
khăn, kể cả khi bạn là cổ đông nhỏ.Câu trả lời gọn nhất cho bạn: Tỷ lệ
nào là phương án do con người tự đưa ra và tự đồng ý với nhau! Những
người có thể quyết là người có tiếng nói và quyền lực sở hữu. Có ích: 3/3 Có ích Không có ích khác ưu điểm của việc này so với việc chia
cổ tức bằng tiền mặt rồi do đó tăng vốn bằng cách phát hành thêm cổ
phiếu? Lợi ích của cổ đông thay đổi như thế nào đối với hai phương án
chia cổ tức : bằng tiền mặt và bằng cổ phiếu?Ưu điểm chính của phương
pháp này là gọn gàng và nhanh hơn do không phải làm công việc phát hành
mới. Trong lần phát hành mới thì Đại hội cổ đông phải thông qua xem có
phát hành mới ra ngoài bổ sung không, nếu có thì tỷ lệ so với cổ đông
hiện tại bao nhiêu?Sự khác biệt là tăng qua thưởng là mức tăng có giới
hạn bên trong, do chỉ tương ứng với lượng tăng tối đa là mức lợi nhuận
để lại. Còn chia cổ tức ra mới tăng, thì quyết định tăng có thể lớn
vượt.Điều này dẫn tới quyền lợi cổ đông là được chia toàn bộ số định
tăng, chứ không có thêm cổ đông bổ sung. Việc tính giá cũng là thống
nhất bên trong cổ đông; chứ không đợi thêm một tham số nữa là bên ngoài
thị trường và cổ đông tương lai nghĩ gì về cổ phiếu sau khi đã phát
hành bổ sung.Về nguyên lý thì giá trị chẳng có gì thay đổi cả. Trường
hợp duy nhất thay đổi là khi mà quốc gia nào đó có luật qui định cho
trường hợp tái đầu tư kinh doanh được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp.
Nhưng đó không phải là trường hợp của Việt Nam.# Bất cứ ngân hàng nào
nếu muốn tăng vốn điều lệ cũng áp dụng được phương án này hay phải có
điều kiện gì?Việc tăng vốn điều lệ không phải là thích làm lúc nào thì
làm. Nhưng việc chia thưởng thì dễ được chấp thuận hơn, do nếu không
chia cổ tức thì đó vẫn là khoản lãi để lại bên trong của ngân hàng đó.
Tỉ lệ chia cổ tức khi này bằng 0. Các phép tính giá trị sổ sách vẫn
phải cộng nguyên phần này. Nhưng khi chia ra thì cổ đông có thêm cổ
phần mà nắm giữ, mặc dù số nắm giữ thêm này, về nguyên lý phải làm giảm
giá trị số đang nắm giữ, do giá trị ngân hàng đâu có thay đổi chỉ nhờ
việc chia tách cơ học này.Tuy vậy, do tâm lý đám đông đầu tư muốn nắm
giữ cổ phần ngân hàng nào đó, sự khao khát này khiến cho cứ có thêm CP
là người ta mua, và có xu hướng mua tới mức giá hiện tại, mặc dù ta
biết rõ là giá trị đã bị pha loãng qua số cổ phần mới bổ sung như thế
nào.Nói chung, hiệu ứng tâm lý đặc biệt ảnh hưởng ở các cuộc chơi như
thế này. Đừng ngạc nhiên nếu thấy một sự vô lý xảy ra mà tất cả vẫn hào
hứng chấp nhận. Thế mới là TTCKVN chứ.
Ông Trần Quảng, một nhà đầu tư trên sàn
SSI kể do thiếu thông tin nên nhiều nhà đầu tư thường mua cổ phiếu theo
tư vấn của công ty chứng khoán.
Mỗi khi thấy ý kiến phân tích, nhận định
của một chuyên gia hoặc công ty chứng khoán về triển vọng của một cổ
phiếu hay nhóm hàng nào đó, họ lại đổ tiền vào mua, bất kể điều đó là
thật hay suy luận viển vông, tạo điều kiện cho những cổ phiếu đó tăng
giá mạnh, sau đó lại tụt xuống, làm cho người chạy sau theo đám đông bị
thua lỗ nặng.
Để quảng bá tên tuổi, nhiều công ty
chứng khoán thành lập riêng bộ phận chuyên viết bài phân tích, nhận
định về chứng khoán. Qua đó, gián tiếp “định hướng” cho nhà đầu tư.
Cách nay mấy ngày, Công ty chứng khoán Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín đưa
ra bản phân tích về cổ phiếu của Tổng công ty Cổ phần Đầu tư phát triển
xây dựng (DIG), với ý kiến mã này có tiềm năng lớn về đất đai nên được
định giá từ 163.000 - 175.000 đồng. Bài phân tích đưa ra ngay thời điểm
giá cổ phiếu nhóm bất động sản đang nóng, làm cho mã DIG vốn đang “bốc
lửa” lại được tiếp thêm “dầu”, mỗi ngày có hàng trăm lệnh đổ vào mua,
trong khi lệnh bán co lại, nhờ vậy giá của DIG càng được dịp vươn cao.
Ngày chào sàn (19/8), DIG khớp giá 66.000 đồng nhưng nay đã lên tới
146.000 đồng.
Tuy nhiên, cũng có những bài phân tích
đưa ra không hợp thời nên chưa đem lại tác dụng. Cách đây mấy ngày,
Công ty chứng khoán Bảo Việt đưa ra bản phân tích, đánh giá về cổ phiếu
của Tổng công ty Khoan và Dịch vụ Dầu khí (PVD), qua đó cho biết PVD có
thể sẽ có những bước tăng trưởng mạnh kể từ năm 2010 khi mà 2 giàn
khoan mới được vận hành đầy đủ cả năm. Kèm theo đó, PVD có lợi thế nhờ
là thành viên của Petrovietnam... Do lời “chỉ trỏ” đưa ra ngay lúc thị
trường điều chỉnh và có lẽ do nguồn thu tăng trưởng còn ở xa nên chưa
hút nhà đầu tư, vì vậy trong hai ngày qua, giá của PVD giảm liên tục,
đã mất 3.000 đồng so với ngày công ty chứng khoán đưa ra nhận định.
Các công ty chứng khoán cũng đầu tư cổ phiếu trên sàn nên họ vừa là bạn đồng hành nhưng cũng là đối thủ của các nhà đầu tư khác.
Do có lợi thế là nhà tư vấn cho doanh nghiệp nên nhiều khi công ty
chứng khoán nắm được thông tin mật, giúp họ mua cổ phiếu sớm với giá
thấp. Đến khi họ đăng bài công khai trình bày tiềm năng, lợi nhuận hấp
dẫn của doanh nghiệp cho công chúng biết thì nhiều trường hợp đã muộn
màng.
Khi nhà đầu tư đọc xong thông tin nguội
mà nhảy vào tranh mua, đẩy giá cổ phiếu lên cao thì thường mắc phải
“cạm bẫy”. Vì lúc đó công ty chứng khoán bán ra để thu siêu lợi nhuận,
còn nhà đầu tư chạy theo mua sau phải gánh lấy hậu quả. Trong các bài
phân tích của công ty chứng khoán, chỉ một số ít có thông tin “nóng”,
còn đa số là “nhai lại” tư liệu của doanh nghiệp đã công bố. Nhiều bài
còn đưa ra những nhận định sắp tới về ngành hoặc doanh nghiệp (thường
mang tính suy luận) nên xác suất sai khá nhiều.
Thời gian qua đã có nhiều thông tin “chỉ
trỏ” của một số công ty chứng khoán, tổ chức đầu tư... nhận định về cổ
phiếu theo chiều hướng thiên vị, có lợi cho họ, thậm chí còn phân tích
“méo mó” quá mức, làm cho doanh nghiệp kiện công ty chứng khoán nhưng
vẫn không có cơ quan nào đứng ra giải quyết. Nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ
thường tiếp cận thông tin muộn màng, nếu nghe theo công ty chứng khoán
một cách mù quáng thì dễ bị rủi ro. Do vậy, nhà đầu tư chứng khoán cần
phải tự trang bị kiến thức chuyên sâu cho mình, khi nghe thông tin “chỉ
trỏ” của công ty chứng khoán và chuyên gia, cần phải chọn lọc, không
nên đầu tư theo đám đông.
Warren Buffett đã có trong tay trên 50 tỷ USD và
chưa có nhà đầu tư chứng khoán nào vượt qua ông về khả năng sinh lời
cho nguồn vốn.
Từ khoản đầu tư đầu tiên
vào năm 1965, sau hơn 4 thập kỷ, Warren Buffett đã có trong
tay trên 50 tỷ USD và chưa có nhà đầu tư chứng khoán
nào vượt qua ông về khả năng sinh lời cho nguồn vốn.
Khi còn nhỏ, Warren Buffett phụ
việc trong cửa hàng thịt nhỏ của ông nội và điều
này đã dạy cho nhà tỷ phú tương lai giá trị của làm
việc chăm chỉ. Cha của ông là một nhà môi giới chứng
khoán, vì thế Buffett có cơ hội tiếp cận với ngành này
từ rất sớm. Khi ông khởi nghiệp, đầu tư giá trị là
một khái niệm ít được biết đến, và chính nhờ thực
hiện đầu tư lâu dài này mà Buffett trở thành nhà đầu
tư huyền thoại của thế giới.
"Bí kíp" đầu tư của
vị tỷ phú chứng khoán đã được trang tin Forexcare hé
lộ.
Warren Buffett từng học ở trường
Benjamin Graham và thu nạp được từ đây kiến thức về
đầu tư giá trị, một khái niệm vẫn còn mới mẻ ở
thời điểm ông khởi nghiệp. Nhà đầu tư giá trị tìm
kiếm những cổ phiếu có thị giá thấp hơn giá trị
thực của chúng.
Thực ra không có công thức cụ thể nào
để tính được giá cổ phiếu thấp hơn giá trị thực
ở mức nào. Cách phổ biến nhất là đánh giá các yếu
tố cơ bản của doanh nghiệp, và nhà đầu tư giá trị
sẽ tìm mua những mã mà họ cho rằng phần lớn những
người khác không nhìn ra tiềm năng của chúng.
Nhưng Warren Buffett đẩy cách đầu
tư này lên một nấc cao hơn, khi ông không chỉ nhìn nhận
cổ phiếu đắt hay rẻ dựa vào sự đánh giá của quy
luật cung cầu, mà là khả năng sinh lời từ hoạt động
kinh doanh của chính doanh nghiệp.
Thực tế, nhà đầu tư
huyền thoại không hề bận tâm đến hoạt động của
thị truờng. Khi đầu tư vào một cổ phiếu nào đó, ông
không quan tâm sau vài năm nữa thị trường có nhận ra
giá trị của mã đó hay không, mà là trong những năm tới
doanh nghiệp này sẽ kiếm ra bao nhiêu tiền.
Dưới đây là 6 câu hỏi Warren
Buffett sử dụng hiện thực hoá quan điểm đầu tư giá
trị của mình:
1. Công ty có hoạt động ổn
định không?
Nhà đầu tư trứơc hết nhìn
vào ROE, bởi đôi khi lợi nhuận trên cổ phiếu (ROE) được
coi là lợi nhuận mà cổ đông có đựoc từ khoản đầu
tư của mình. Nó cho thấy tỷ lệ nhà đầu tư có thể
thu lợi từ cổ phiếu. Buffett luôn nhìn vào ROE để biết
doanh nghiệp mục tiêu có hoạt động ổn định và có
hiệu quả so với các doanh nghiệp cùng ngành hay không.
2. Công ty có tránh được tình
trạng nợ quá lớn không?
Tỷ lệ vốn trên cổ phần là
một yếu tố quan trọng khác mà Buffett thường xem xét
rất kỹ lưỡng. Nhà đầu tư giá trị sẽ tìm mua cổ
phiếu của những doanh nghiệp có khoản nợ nhỏ, như vậy
có nghĩa là lợi nhuận sẽ chủ yếu bắt nguồn từ vốn
của cổ đông chứ không phải từ vốn vay.
3. Biên lợi nhuận có cao không?
Có khả năng tăng nữa không?
Khả năng sinh lời của một
doanh nghiệp phụ thuộc không chỉ vào biên lợi nhuận
tốt mà còn vào mức tăng ổn định của biên lợi nhuận
này.
Để biết đựoc chính xác sức khỏe của doanh
nghiệp, cần nhìn lại biên lợi nhuận trong vòng 5 năm
gần nhất. Biên lợi nhuận lớn cho thấy doanh nghiệp
hoạt động tốt, và lãnh đạo doanh nghiệp rất có khả
năng điều hành và quản lý chi phí.
4. Công ty đã trở thành doanh
nghiệp đại chúng bao lâu?
Buffett chỉ quan tâm đến những
doanh nghiệp đã chào bán cổ phần rộng rãi được ít
nhất 10 năm. Vì thế, những công ty mới thực hiện IPO
đều không lọt vào "mắt xanh" của ông.
Buffett
hoàn toàn có lý do để đưa ra tiêu chí này, bởi nhà đầu
tư giá trị chỉ nhắm đến những doanh nghiệp đã được
thời gian thử thách và vẫn đang bị thị trường định
giá thấp.
5. Sản phẩm của công ty có phụ
thuộc vào loại hàng hoá nào không?
Tiêu chí này thoạt nhìn có vẻ
cực đoan, nhưng thực tế Buffett thường tránh những
doanh nghiệp có sản phẩm kém nổi bật so với các đối
thủ cùng ngành và lại phụ thuộc nhiều vào các nguyên
nhiên liệu đầu vào như dầu mỏ hay khí đốt.
Ông quan
niệm, nếu doanh nghiệp không có gì khác biệt so với các
đối thủ thì cũng ít có khả năng sinh lời vượt bậc.
6. Giá cổ phiếu có thấp hơn
giá trị thực đến 25% không?
Sau khi tìm được những cổ
phiếu đáp ứng được cả 5 câu hỏi ở trên, thì nhà
đầu tư phải trả lời câu hỏi cuối cùng và cũng là
khó nhất này. Phát hiện cổ phiếu đang bị định giá
thấp cũng chính là kỹ năng quan trọng nhất của Buffett.
Để trả lời câu hỏi này, nhà đầu tư cần phân tích
một loạt dữ liệu cơ bản của doanh nghiệp (lợi nhuận,
doanh thu và tài sản) và giá trị thanh khoản - doanh nghiệp
này có giá bao nhiêu nếu nó được bán lại khi phá sản.
Giá trị thanh khoản không bao gồm thương hiệu của doanh
nghiệp.
Khi tính xong các giá trị này,
Buffett so sánh với vốn hoá hiện tại của doanh nghiệp.
Nếu giá trị theo tính toán của ông cao hơn vốn hoá thị
trường ít nhất 25% thì đó chính là doanh nghiệp đáng
được ông đầu tư. Nghe có vẻ dễ dàng, nhưng toàn bộ
bí quyết thành công Warren Buffett lại nằm ở cách ông
tính giá trị của những doanh nghiệp trong "tầm
ngắm".
UBCKNN cho biết, quý II/2009, cơ quan này nhận
được 92 hồ sơ của các công ty đại chúng xin phép trả cổ tức bằng cổ
phiếu, chia thưởng.
Trên sàn
niêm yết, cổ phiếu có thông tin chia thưởng tăng giá mạnh bất chấp thị trường
tăng hay giảm, nhưng đến khi có thông báo xác nhận chính thức của UBCK về
"thông tin chia thưởng là đúng" thì cổ phiếu lại "xì hơi".
Trong "mốt" đầu tư như vậy, điều đáng nói là có không ít kẻ trục lợi,
gây lộn xộn trên thị trường và thiệt hại cho một bộ phận không nhỏ NĐT
Theo thông
tin từ Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK), quý II/2009, cơ quan này nhận được
92 hồ sơ của các công ty đại chúng xin phép trả cổ tức bằng cổ phiếu, chia thưởng.
Quý III chưa qua, song số lượng hồ sơ dự kiến cũng khong ít hơn quý II.
Sacombank
trả cổ tức năm 2008 bằng cổ phiếu 15% và phát hành thêm cổ phiếu tỷ lệ 20:3,
ngày giao dịch không hưởng quyền là ngày 16/9/2009. Vinamilk chia thưởng cổ phiếu
tỷ lệ 1:1, chốt danh sách vào ngày 22/9. Hóa dầu Petrolimex, Thế giới số Trần
Anh, Ngân hàng cổ phần Sài Gòn Công thương, Techcombank, ABBank, Đầu tư Phát
triển Công nghiệp Thương mại Củ Chi... đều chia thưởng. So với phát hành cổ phiếu
ra công chúng, thủ tục phát hành cổ phiếu trả cổ tức và chia thưởng đơn giản
hơn nhiều. Hồ sơ nộp về UBCK chỉ cần tài liệu chứng minh có đủ nguồn tài chính
và nghị quyết ĐHCĐ là đủ.
Theo một
quan chức UBCK, nếu hồ sơ đầy đủ, hợp lệ, thì chỉ 4 - 5 ngày kể từ khi doanh
nghiệp nộp hồ sơ, cơ quan này sẽ có thông báo "nhận được đầy đủ tài liệu
báo cáo phát hành cổ phiếu thưởng cho cổ đông hiện hữu", đồng nghĩa với việc
hồ sơ được chấp thuận. Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng hoàn tất thủ
tục nhanh như vậy.
Có trường hợp ĐHCĐ ra nghị quyết chia thưởng từ lợi nhuận để
lại 100 tỷ đồng, nhưng báo cáo tài chính lại thể hiện nguồn tiền này chỉ có 20
tỷ đồng. Có doanh nghiệp báo cáo chia thưởng từ quỹ đầu tư tăng trưởng hoặc quỹ
A, B nào đó theo nghị quyết ĐHCĐ, nhưng trước đó cũng nguồn quỹ này đã được
trích một phần để mua cổ phiếu quỹ... Với những trường hợp như vậy, doanh nghiệp
đều phải có giải trình và chỉ khi nào thông tin đó đầy đủ, hợp lệ, UBCK mới chấp
thuận.
Tại sao thời
điểm này nhiều công ty chọn hình thức chia thưởng? Theo tổng giám đốc một doanh
nghiệp niêm yết, nhiều đơn vị chia thưởng trong năm nay nhằm hỗ trợ cổ đông
không phải chịu thuế thu nhập cá nhân.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp đang thực hiện
nhiều dự án lớn, với mức vốn điều lệ như hiện tại, hạn mức tín dụng ngân hàng
dành cho doanh nghiệp khá thấp, nên phải tăng vốn mới có điều kiện tiếp cận khoản
vay lớn hơn. Ngoài ra, ở một số mã cổ phiếu có thị giá cao, việc chia tách có
thể giúp gia tăng tính thanh khoản.
Dù với lý
do nào chăng nữa, trong giai đoạn thị trường có xu hướng tăng, việc phát hành cổ
phiếu thưởng cũng được hưởng ứng. Bằng chứng là, mỗi khi mã cổ phiếu nào đó được
"rỉ tai" thông tin chia thưởng, giá lập tức tăng vù vù. Một cán bộ
UBCK nói vui, cứ thấy cổ phiếu nào tăng giá mạnh là mấy hôm sau thấy hồ sơ xin
chia thưởng nộp về Ủy ban.
Điều đáng
nói là cơ hội tiếp cận với thông tin cổ phiếu sắp chia thưởng với các NĐT không
đồng đều. Mua khi có tin đồn, bán lúc tin có tin ra, chính vì lý do này không
ít NĐT nhỏ lẻ bị cuốn vào con sóng cổ phiếu thưởng đã thua thiệt khi "mua
đúng đỉnh".
Thực tế, thị trường đã kiểm nghiệm không ít tin chia thưởng thời
gian qua ban đầu chỉ là tin đồn, về sau hoàn toàn chính xác. Nhiều doanh nghiệp
khẳng định không cung cấp bất cứ thông tin nào về tỷ lệ chia thưởng và tất cả
các quyết định về kế hoạch chia thưởng, cổ tức của công ty đều phải thông qua
ĐHCĐ hoặc hội đồng quản trị, việc công bố thông tin cũng được thực hiện theo
đúng quy định của UBCK và Sở giao dịch. Vậy thử hỏi, không ít tin đồn tại sao lại
chính xác 100% như vậy?
Chia thưởng
hay không là quyền của cổ đông, quyền của mỗi doanh nghiệp. Ở những doanh nghiệp
thực sự có nguồn thặng dư, lợi nhuận để lại lớn, hoạt động hiệu quả, đủ để đảm
bảo mức tăng trưởng trên mỗi cổ phiếu sau khi chia tách được duy trì, việc chia
cổ phiếu thưởng là bình thường. Tuy vậy, theo thông tin từ UBCK, trong số doanh
nghiệp nộp hồ sơ xin chia thưởng, có cả những đơn vị... lỗ nặng trong 6 tháng đầu
năm. Dựa trên báo cáo tài chính năm trước, doanh nghiệp vẫn đủ điều kiện chia
thưởng, song rõ ràng với tình hình hoạt động của công ty như hiện tại, việc
chia thưởng chưa hẳn là cách làm hay. UBCK trong những trường hợp như vậy cũng
có văn bản khuyến cáo doanh nghiệp xem xét lại phương án, song một khi doanh
nghiệp bảo lưu, cơ
... Read more »
Chỉ số P/B (Price-to-Book ratio – Giá/Giá trị sổ
sách) là tỷ lệ được sử dụng để so sánh giá của một cổ phiếu so với giá
trị ghi sổ của cổ phiếu đó. Tỷ lệ này được tính toán bằng cách lấy giá
đóng cửa hiện tại của cổ phiếu chia cho giá trị ghi sổ tại quý gần nhất
của cổ phiếu đó.
Công thức tính như sau:
Giá cổ phiếu
P/B = ------------------------------------------------
Tổng giá trị tài sản – giá trị tài sản vô hình – nợ
Ví dụ: Giả sử một công ty có giá trị tài sản ghi
nhận trên bảng cân đối kế toán là 200 tỷ VND, tổng nợ 150 tỷ VND, như
vậy giá trị ghi sổ của công ty là 50 tỷ . Hiện tại công ty có 2 triệu
cổ phiếu đang lưu hành, như vậy giá trị ghi sổ của mỗi cổ phiếu là
25.000 VND. Nếu giá thị trường của cổ phiếu đang là 75.000 VND, thì P/B
của cổ phiếu được tính như sau:
P/B = 75.000/25.000 = 3
Đối với các nhà đầu tư, P/B là công cụ giúp họ tìm kiếm các cổ phiếu có giá thấp mà phần lớn thị trường bỏ qua.
Nếu một doanh nghiệp đang bán cổ phần với mức giá
thấp hơn giá trị ghi sổ của nó (tức là có tỷ lệ P/B nhỏ hơn 1), khi đó
có hai trường hợp sẽ xảy ra: hoặc là thị trường đang nghĩ rằng giá trị
tài sản của công ty đã bị thổi phồng quá mức, hoặc là thu nhập trên tài
sản của công ty là quá thấp.
Nếu như điều kiện đầu tiên xảy ra, các nhà đầu tư
nên tránh xa các cổ phiếu này bởi vì giá trị tài sản của công ty sẽ
nhanh chóng được thị trường điều chỉnh về đúng giá trị thật.
Còn nếu điều thứ hai đúng, thì có khả năng lãnh
đạo mới của công ty hoặc các điều kiện kinh doanh mới sẽ đem lại những
triển vọng kinh doanh cho công ty, tạo dòng thu nhập dương và tăng lợi
nhuận cho các cổ đông.
Ngược lại, nếu một công ty có giá thị trường của
cổ phiếu cao hơn giá trị ghi sổ thì đây thường là dấu hiệu cho thấy
công ty làm ăn khá tốt, thu nhập trên tài sản cao.
Chỉ số P/B chỉ thực sự có ích khi nhà đầu tư xem
xét các doanh nghiệp có mức độ tập trung vốn cao hoặc các công ty tài
chính, bởi giá trị tài sản của các công ty này tương đối lớn.
Vì công tác kế toán phải tuân thủ những tiêu chuẩn
ngặt nghèo, nên giá trị ghi sổ của tài sản hoàn toàn không tính tới các
tài sản vô hình như thương hiệu, nhãn hiệu, uy tín, bằng sáng chế và
các tài sản trí tuệ khác do công ty tạo ra. Giá trị ghi sổ không có ý
nghĩa nhiều lắm với các công ty dịch vụ vì giá trị tài sản hữu hình của
họ không lớn.
(Câu trả lời do Công ty chứng khoán VPBank - VPBS cung cấp)- Nguồn từ Việt Báo
Nhiều lệnh mua hàng trăm ngàn cổ phiếu ngân hàng với giá cao để đẩy giá lên và ngược lại
Kết quả kinh doanh của các ngân hàng (NH) niêm yết trên sàn
chứng khoán TPHCM đều khá khả quan. Nhưng tại sao giao dịch cổ phiếu NH những
phiên gần đây biến động thất thường?
Tung chiêu đẩy lên
Sàn chứng khoán TPHCM hiện có 3 NH niêm yết cổ phiếu. Đó là
NH Sài Gòn Thương Tín (STB), Vietcombank (VCB), NH Công thương VN (CTG). Kết
thúc 6 tháng đầu năm 2009, lợi nhuận VCB là 2.450 tỉ đồng. CTG thu về 2.100 tỉ
đồng lợi nhuận trước thuế trong khi chỉ tiêu cả năm chỉ 2.593 tỉ đồng. STB cũng
đạt mức lãi 905 tỉ đồng.
Thế nhưng hiệu quả kinh doanh không phải yếu tố làm
cho cổ phiếu của 3 NH này tăng giá trong những phiên giao dịch gần đây. Đó là
chưa kể có hiện tượng cổ phiếu NH lên xuống bất thường, làm cho các chuyên gia
cho rằng các đại gia chứng khoán đã đẩy giá cổ phiếu CTG, VCB, STB lên bằng
cách tung ra lệnh mua hàng trăm ngàn cổ phiếu với giá cao.
Tác động của chiêu này làm nhiều nhà đầu tư (NĐT) nhỏ lẻ bị
“cuốn theo chiều gió” nhưng không thể chen chân phải đặt lệnh mua với giá cao
hơn. Cứ thế giá cổ phiếu CTG, STB, VCB tăng dần lên.
Biểu hiện rõ nhất là 4
phiên giao dịch gần nhất (từ ngày 22 đến 24-7 và 27-7) CTG đều tăng trần, từ
34.400 đồng/cổ phiếu leo lên 40.800 đồng/cổ phiếu (tăng 20%), dư mua lên tới
7,6 triệu cổ phiếu, khối lượng giao dịch đạt gần 8 triệu cổ phiếu. STB, VCB
cũng có đà tăng giá tương tự; lượng dư mua, khối lượng giao dịch cũng tăng đột
biến như CTG.
Tuy nhiên, giới phân tích cho biết trong tiến trình đẩy giá
lên thị trường sẽ có những đợt điều chỉnh. Phiên giao dịch ngày 28-7, CTG, VCB,
STB đồng loạt rớt giá là một minh chứng. Phiên này, các quỹ đầu tư, công ty
chứng khoán đã tranh thủ thu gom cổ phiếu NH với khối lượng lớn.
Điều này thể
hiện khá rõ khi STB khớp lệnh thành công 8,5 triệu cổ phiếu. VCB và CTG đều có
khối lượng giao dịch 2 triệu cổ phiếu. Trong khi NĐT chỉ mua 3 mã chứng khoán
này gần 400.000 cổ phiếu.
Dìm giá để gom hàng?
Quan sát thị trường, nhiều người nhận thấy trước khi đẩy giá
lên, các đại gia thường dìm giá cổ phiếu NH theo cách đặt lệnh bán giá thấp, số
lượng cực lớn vào những thời điểm thị trường đi xuống. Nhiều NĐT muốn thoát
khỏi cổ phiếu NH phải đặt lệnh bán với giá thấp hơn.
Khi đó, các đại gia sẽ đặt
lệnh mua có số lượng và mức giá ngang bằng lệnh bán của nhiều người khác. Qua
nhiều phiên giao dịch, giá cổ phiếu NH giảm dần và xuống đến mức giá như ý
muốn, các đại gia sẽ gom hàng.
Diễn biến của các phiên giao dịch (ngày 16, 17-7 và 20,
21-7) cho thấy CTG liên tục giảm giá sàn. STB, VCB bị bán tháo. Thế nhưng, khối
lượng giao dịch của 3 mã này lại khá lớn. Đơn cử ngày 21-7, CTG trao tay 2,1
triệu cổ phiếu, trong đó NĐT nước ngoài mua 500.000 cổ phiếu; chênh lệch bán -
mua 335.000 cổ phiếu. S
TB khớp lệnh gần 4 triệu cổ phiếu, dư bán nhiều hơn dư
mua... Thời điểm đầu tháng 7-2009, thị trường cũng ghi nhận chỉ trong vài ngày,
STB bán xong 18,2 triệu cổ phiếu quỹ với giá 35.000 đồng/cổ phiếu theo phương thức
thỏa thuận, chứng tỏ người mua STB là các đại gia mới tiêu thụ hết khối lượng
lớn cổ phiếu trong một thời gian ngắn.
Không nên ăn theo
Theo giới phân tích, các tổ chức thường đưa ra những tuyên
bố căn cứ vào giá trị tài sản, tốc độ tăng tưởng, chỉ tiêu lợi nhuận, độ an
toàn trong hoạt động kinh doanh... để rót vốn vào cổ phiếu NH.
Tuy vậy, điều
này chỉ đúng về mặt lý thuyết. Bởi thời điểm này phần lớn NĐT lớn đều là “vận
động viên” lướt sóng. Khi giá cổ phiếu NH lên như kỳ vọng họ sẽ ồ ạt xả hàng. Việc
các tổ chức dìm giá cổ phiếu NH sau đó đẩy giá lên là để tạo sóng thị trường.
NĐT nhỏ lẻ có thể bị cuốn theo những con sóng đó nhưng không biết đâu là đỉnh,
đâu là đáy để nhảy vô hay thoát ra cổ phiếu NH. Vì thế, khi thông tin giao dịch
cổ phiếu NH biến động bất thường, NĐT không nên tham gia thị trường.
Việc làm giá không chỉ diễn ra ở thị trường mới như
Việt Nam, mà khắp nơi trên thế giới. Trong đó, có khâu "đánh xuống" để
gom hàng.
Việc
làm giá theo hướng dìm giá có ba giai đoạn. Thứ nhất là đánh xuống để
gom hàng giá rẻ. Thứ hai là đẩy giá lên. Và cuối cùng là xả hàng để thu
lợi.
Để có thể thao túng giá của một cổ phiếu thì phải là
nhà đầu tư lớn. Đó có thể là tổ chức tài chính có năng lực tài chính
hùng hậu, các quỹ đầu tư, các công ty chứng khoán, các tổ chức tín dụng
tư nhân, các đại gia hoặc nhóm đại gia liên kết với nhau.
Thông thường nhà đầu tư lớn nghiên cứu và chọn lựa khá kỹ trước khi tiến hành làm giá một cổ phiếu nào đó. Đối tượng được nhắm tới là các cổ phiếu có tổng số cổ phiếu lưu hành thấp,
khối lượng giao dịch bình quân không quá lớn, có các chỉ số cơ bản tốt,
có thông tin nội gián về tăng trưởng lợi nhuận đột biến, chia cổ phiếu
thưởng và cổ tức cao,… hoặc các cổ phiếu có thông tin ngành hỗ trợ.
Các cổ phiếu blue-chip có giao dịch lớn cũng đôi khi
được đẩy giá nhưng phải dựa vào xu thế của thị trường hoặc thông tin hỗ
trợ nổi bật. Nhưng việc làm giá blue-chip sẽ khó hơn nhiều, vì khối
lượng giao dịch rất lớn, có khi người làm giá sẽ bị thiệt hại do không
thắng được các nhóm lợi ích khác.
Một số bước nghiên cứu và tìm hiểu về cổ phiếu trước
khi thao túng có thể là: thứ nhất, tìm kiếm các cổ phiếu dưới giá trị
nội tại tương đối nhiều do thị trường sụt giảm quá mức, giao dịch ảm
đạm. Thứ hai, thu thập dữ liệu tài chính, yêu cầu các chuyên viên tài
chính phân tích nghiên cứu về cơ bản. Thứ ba, cử người tiếp xúc với
công ty nhằm tìm hiểu kỹ về bộ máy lãnh đạo, chiến lược phát triển và
định hướng dài hạn của công ty… Tuy nhiên các bước này không phải lúc
nào cũng xảy ra mà đôi khi chỉ đơn thuần là các nhà đầu tư lớn làm giá
theo thị trường, theo tin đồn, làm giá để giải cứu số cổ phiếu đã lỡ
mua ở mức giá cao.
Việc
làm giá xuống để thu gom nhiều cổ phiếu trước khi đẩy giá tăng mạnh,
yêu cầu là phải chuẩn bị sẵn một lượng cổ phiếu nhất định. Nhằm
mục tiêu mua được giá thấp, nhà đầu tư lớn có thể bán cổ phiếu giá sàn
để tạo tâm lý hoảng loạn. Họ chủ động bán cổ phiếu giá sàn ào ạt ở tài
khoản A, các nhà đầu tư nhỏ hoảng sợ vì áp lực bán quá lớn nên cũng đặt
bán giá sàn hoặc giá thấp. Khi thấy số lượng cổ phiếu chào bán giá thấp
đủ nhiều, nhà đầu tư lớn sẽ huỷ lệnh bán và dùng tài khoản B của mình
để mua gom hàng hoặc không cần huỷ lệnh bán mà đặt mua lại luôn số cổ
phiếu vừa đặt bán và thu mua thêm cổ phiếu của các nhà đầu tư khác bán
ra ở giá thấp.
Tình trạng này có thể diễn ra trong ngày hoặc liên
tiếp vài ngày cho đến khi nhà đầu tư lớn đã mua đủ số cổ phiếu mong
muốn. Cách thức này rất hiệu quả khi toàn thị trường đang trong xu
hướng điều chỉnh giảm.
Cách khác là bán chặn giá trên, nhà đầu tư lớn sẽ bán
ra số lượng cổ phiếu rất lớn ở tài khoản A ngay từ đầu giờ ở các mức
giá cao. Nhà đầu tư lớn này ở các tài khoản khác chỉ đặt mua cổ phiếu
với lượng vừa phải ở các mức giá thấp. Vì vậy các nhà đầu tư khác muốn
bán phải tranh bán giá thấp (nếu không sẽ không khớp) và "sập bẫy".
Kỹ xảo "rải đinh" cũng có thể được nhà đầu tư lớn áp
dụng. Họ che giá mua thật để mua được giá tốt nhất. Bởi vì bảng điện tử
chỉ thể hiện ba mức giá mua cao nhất nên nhà đầu tư lớn đặt ba lệnh mua
ở ba mức giá cao nhưng mỗi lệnh chỉ mua số lượng không lớn. Khi đó toàn
bộ các lệnh mua khác bị che khuất. Ở đằng sau các mức giá hiện ra trên
bảng điện là cuộc đấu trí giữa các nhà đầu tư và mức giá dự kiến khớp
sẽ dao động thay đổi cho đến cuối phiên khớp lệnh.
Sau khi mua được số lượng cổ phiếu nhất định với mức
giá thấp, nhà đầu tư lớn sẽ chờ đợi cơ hội tốt khi thị trường khởi sắc
tăng mạnh hoặc cổ phiếu nắm giữ có thông tin tốt hỗ trợ để đẩy giá để
thu siêu lợi nhuận.
Nhà đầu tư có tìm hiểu kỹ về công ty mình đang đầu
tư, có phán đoán tốt về xu thế thị trường, kế hoạch và chiến lược đầu
tư hợp lý, rõ ràng sẽ không bị tác động bởi hình thức làm giá xuống
này. Ngược lại, nhà đầu tư có thể tận dụng các cơ hội như vậy để mua
được các cổ phiếu nhiều tiềm năng với giá thấp.
Việc đẩy giá được thực hiện ngay khi thị trường tăng
mạnh hoặc cổ phiếu có thông tin tốt hỗ trợ. Các nhà đầu tư “sập bẫy”
mua ở vùng giá đỉnh sẽ thiệt hại rất nặng.
Biểu hiện của việc đẩy giá có thể nhận biết qua diễn
biến giá tăng cao với khối lượng mua áp đảo ngay từ đầu phiên giao dịch
để tạo mức cầu lớn. Dư mua ở mức giá trần và lệnh ATO tăng đột biến so
với khối lượng khớp thông thường.
Bên bán nhìn thấy khối lượng dư mua quá lớn thì dù có
muốn bán cũng có ý nghĩ chờ đợi thêm vài phiên nữa để bán được giá cao
hơn. Vì vậy khối lượng giao dịch thành công trong các phiên đẩy giá rất
thấp. Giá có thể được đẩy lên liên tục vài ngày hoặc cá biệt đến vài
tuần. Trong quá trình lên đến đỉnh cao có một vài phiên giao dịch mạnh
nhưng giá vẫn tăng gần trần hoặc trần.
Trường hợp này, nhà đầu tư chỉ nên tranh mua khi giá
vừa chớm tăng trong giai đoạn đầu. Nếu không thể mua được thì không nên
theo đuổi mua liên tục nhiều ngày mà có thể nghiên cứu cổ phiếu khác
cùng ngành, có các chỉ số tốt để đầu tư, vì thông thường các cổ phiếu
cùng ngành có xu hướng gần giống nhau.
Cũng có trường hợp đẩy giá khéo léo, khó nhận biết
hơn theo xu hướng chung của thị trường, kết hợp giữa bán và mua. Trường
hợp này thường xảy ra với các cổ phiếu có nền tảng, có các chỉ số cơ
bản tốt, thương hiệu mạnh, có tính thanh khoản cao, khối lượng giao
dịch bình quân mỗi ngày tương đối lớn.
Các
nhà đầu tư lớn với các lợi thế về vốn, kinh nghiệm đầu tư, kiến thức
tài chính, khả năng nhận định xu hướng thị trường và tâm lý đám đông tốt…
có thể tiến hành đẩy giá theo hình thức này. Họ bán ra mạnh ở mức giá
cao gần trần trong tài khoản A. Các nhà đầu tư nhỏ nhận thấy lượng đặt
bán ở giá cao nhiều quá nên nghĩ rằng giá khó tăng cao hơn nên họ bán
ra ở các mức giá thấp hơn.
Khi khối lượng bán tăng cao và ở các mức giá thấp thì
nhà đầu tư lớn tiến hành mua lại ở tài khoản B. Khối lượng bán suy giảm
thì các nhà đầu tư nhỏ khác lại tranh mua giá cao hơn và nhà đầu tư lớn
không tốn nhiều sức lực để đưa giá lên cao trở lại.
Với biến động 5% ở HOSE và 7% ở HNX thì biện pháp
bán mua “xoay vòng đảo hàng” này rất hiệu quả vì vừa có lợi nhuận ngay
trong ngày vừa đạt mục tiêu đẩy giá lên cao. Đặc điểm của cách thức đẩy
giá này là khối lượng giao dịch vẫn tốt trong các phiên giao dịch, giá
vẫn tăng mặc dù có thể không tăng trần liên tiếp. Giá biến động trong
các phiên giao dịch chứ không dư mua áp đảo.
Ở hình thức này, nhà đầu tư nhỏ có thể tham gia nếu
nhận định tốt xu hướng của thị trường vì có thể mua được cổ phiếu trong
quá trình giá tăng nhưng không nên mạo hiểm tham gia khi mức giá đã
tăng quá cao. Thời gian qua, có một cổ phiếu đã tăng hơn 200% từ 26.000
đồng lên đến đỉnh cao gần 80.000 đồng một cổ phiếu trong trường hợp này.
Sau quá trình đẩy giá, các nhà đầu tư lớn sẽ hoạch định việc xả hàng ở các mức giá cao.
Họ đặt mua ào ạt cổ phiếu ở giá trần nhằm tạo tâm lý hưng phấn cho các
nhà đầu tư khác. Trên bảng điện tử xuất hiện một lượng lớn cổ phiếu
được đặt mua giá trần, các nhà đầu tư nghĩ rằng giá sẽ vẫn còn tiếp tục
tăng mạnh nên cũng đặt mua ào ào theo ở giá trần. Khi thấy lượng đặt
mua đủ lớn, nhà đầu tư lớn sẽ dùng tài khoản B bán dần cổ phiếu ra, với
số lượng bán lớn hơn số lượng đặt mua.
Cách thức đẳng cấp cao hơn là nhà đầu tư lớn đầu giờ
đặt mua giá trần và ATO với khối lượng lớn. Các nhà đầu tư khác cũng
tranh giành đặt lệnh mua giá trần để chờ khớp, vì lượng mua quá lớn nên
phiên đầu tiên khối lượng khớp thường không đáng kể.
Trong phiên khớp lệnh liên tục, nhà đầu tư lớn thực
hiện hủy lệnh mua giá trần đang ở thứ tự chờ khớp ưu tiên nhưng cũng
đồng thời đặt lại ngay một lượng mua tương tự ở mức giá trần trong tài
khoản khác, việc hủy và đặt lệnh mua lại diễn ra rất nhanh trong tích
tắc nên trên bảng điện tổng số lượng mua hầu như không đổi nhưng các
nhà đầu tư khác đang ở thứ tự ưu tiên khớp đầu tiên.
Lúc này nhà đầu tư lớn sẽ tiến hành bán số cổ phiếu
phù hợp với lượng mua của các nhà đầu tư khác rồi tạm ngưng bán. Thấy
số lượng mua giá trần vẫn còn nhiều (nhưng thực chất là lượng mua của
chính nhà đầu tư lớn), các nhà đầu tư khác “yên tâm” đặt mua giá trần,
quá trình cứ thế tiếp diễn.
Tuy nhiên, trong các trường hợp đặc biệt, do biến
động của thị trường, nhà đầu tư lớn có thể chấp nhận bán dần ở giá thấp
hoặc giá sàn để “xả hàng” mà không mua lại vì họ đã có được lợi nhuận
lớn trong quá trình đưa giá từ các mức thấp lên đỉnh cao. Khi nhà đầu
tư lớn không tiến hành mua lại nữa thì giá cổ phiếu sẽ đứng hoặc đi
xuống. Các nhà đầu tư mua ở vùng giá đỉnh cao sẽ thiệt hại rất nặng.
Lý Thuyết sóng Elliott: Nguyên tắc sóng Elliott là một trong những công cụ phân tích kỹ thuật
mà một số nhà kinh doanh chứng khoán dùng để phân tích những xu hướng
giá trong các thị trường tài chánh. “Cha đẻ” của nguyên tắc này là Ông
Ralph Nelson Elliott (1871-1948). Nghề chính của ông là kế tóan và ông
đã nghiên cứu và phát triển ra nguyên tắc này vào những năm 30 của thế
kỷ trước. Theo ông Elliott, sự thay đổi của giá cả sẽ tạo ra
những cơn sóng, như hình vẽ. Trong đó một cơn sóng cơ bản sẽ có 5 cơn
sóng “chủ” và 3 cơn sóng điều chỉnh. Trong 5 con sóng chủ thì sóng số
1, 3 và số 5 gọi là sóng “chủ và động”, và sóng 2, 4 gọi là sóng “chủ
và điều chỉnh”. 2 con sóng điểu chỉnh được gọi là sóng A,B, C. Trong
mỗi một con sóng như vậy lại có những con sóng nhỏ và cũng tuân theo
quy luật của lý thuyết Elliot. Một đợt sóng chủ hòan chỉnh sẽ có 89
sóng và đợt sóng điều chỉnh hòan chỉnh sẽ có 55 sóng. Tùy theo thời gian độ lớn của sóng sẽ được phân theo thứ tự sau
Grant Supercycle: sóng kéo dài nhiều thập kỹ, đôi khi cả thế kỹ
Supercycle: kéo dài từ vài năm đến vài thập kỹ
Cycle: kéo dài từ 1 đến vài năm
Primary: kéo dài từ vài tháng đến vài năm
Intermediate: kéo dài từ vài từ tuần đến vài tháng
Minor: kéo dài trong vài tuần
Minute: Kéo dài trong vài ngày
Minuette: Kéo dài trong vài giờ.
Subminutte: Kéo dài trong vài phút.
Dãy số Fibonacci Dãy
số do nhà tóan học người Ý Leonardo Fibonacci (1175-1250) phát minh ra.
Bắt đầu là số 0 và số 1, sau đó là những số kế tiếp được tạo ra bằng
cách công 2 số đứng trước. Ví dụ 1 = 1+0, 5 = 3+2, 34=21+13. Điều kỳ
diệu hơn là cứ lấy số lớn chia cho số nhỏ hơn một bậc , ví dụ 89/55 ta
sẽ được 1.618; lấy số nhỏ chia cho số lớn hơn 1 bậc, ví dụ 21/34 ta sẻ
được 0.6180, lấy số nhỏ chia cho số lớn hơn 2 bậc, ví dụ 13/34 ta sẽ
được 0.382. Tất cả các con số thuộc dãy số Fibonacci 0, 1, 1, 2,
3, 5, 8 …và các con số 0.618 và 0.382, trong đó đặc biệt nhất là con số
được mệnh danh là “tỷ lệ vàng” 1.618 - xuất hiện rất nhiều trong tự
nhiên, trong cơ thề con người, trong vũ trụ, trong kiến trúc, xây dựng. Quan trọng hơn đối với chúng ta những nhà đầu tư,
kinh doanh chứng khoán, những con số “đầy ma lực trên” bên trên xuất
hiên ngay trong thị truờng tài chánh, nhất là những biến động về giá cả. Ralph
Nelson Elliott khẳng định rằng ông nghiên cứu và phát mình ra lý thuyết
sóng truớc khi biết Fibonacci nhưng những con số trùng hợp đến kỳ lại:
5 sóng chủ, 3 sóng điều chỉnh, 89 sóng chủ, 55 sóng điều chỉnh cũng
như tỷ lệ giá của các con sóng luôn ở chung quanh các tỷ lệ vàng 0.618,
1.618, 0.328. Do đó có một giá thuyết khác cho rằng Ông Elliott đã ứng
dụng những con số Fibonacci vào lý thuyết của mình.
Một dãy sóng 5-3 điển hình trong thị trường tăng trường “bò húc” Dưới
đây là phân tích một con sóng 5-3 điển hình của thị trường trong giai
đọan tăng trưởng - “bò húc”. Cũng con sóng 5-3 này trong Thị trường suy
thóai – “gấu ngủ” sẽ được vẽ hòan tòan ngược lại. Sóng chủ số 1.
Đợt sóng đầu tiên này là có điểm xuất phát từ thị truờng con gấu (suy
thóai), do đó sóng 1 ít khi được nhận biết ngay từ đầu. Lúc này thông
tin cơ bản về các công ty niêm uớc vẫn đang là thông tin tiêu cực.
Chiều hướng của thị trường trước khi sóng 1 xảy ra chủ yếu vẫn là thị
truờng suy thoái. Những nhà phân tích cơ bản
vẫn đang tiếp tục điều chỉnh thu nhập kỳ vọng thấp xuống so với dự
kiến. Khối lương giao dịch có tăng chút ít theo chiều hướng giá tăng.
Tuy vậy việc tăng này là không đáng kể. Do đó nhiều nhà phân tích kỹ
thuật không nhận ra sự có mặt của đợt sóng số 1 này. ... Read more »
Thời gian gần đây, TTCK biến động rất nhanh giữa các đợt khớp lệnh, có thể tăng trần đợt 1 và giảm sàn đợt 3, tương đương biên độ dao động giá đến 20% trên sàn HN hoặc 10% trên sàn TPHCM.
Nếu nhà đầu tư (NĐT) có thể mua và bán ngay lập tức CP trong cùng một phiên hay mua hôm trước, bán hôm sau thì cơ hội kiếm lợi nhuận trong khoảng thời gian ngắn là rất lớn.
Chiến thuật chia nhỏ
Cách này, NĐT có thể thực hiện một mình. NĐT chia số tiền thành nhiều phần mua/bán cùng một loại CP. Giả sử NĐT đang có 500 REE, và CP này đang giảm. Nếu dự đoán ngày tiếp theo CP sẽ tăng giá thì hôm nay, NĐT có thể mua vào đúng 500 REE.
Hiện tại, phương thức thanh toán là chu kỳ T+3, tức sau khi thực hiện giao dịch 3 ngày làm việc thì tiền hay CP mới về tài khoản. Do tiền mặt hay CP được hạch toán vào buổi chiều sau khi kết thúc phiên giao dịch, nên thực chất NĐT chỉ có thể mua/bán vào ngày hôm sau (T+4).
Hiện quy định cấm mua và bán một loại CP ở cùng một tài khoản trong cùng một ngày. Các CTCK cũng mới cung cấp dịch vụ ứng trước tiền bán, chứ chưa ứng trước CP do luật chưa cho phép nghiệp vụ bán khống.
Ngày hôm sau REE tăng giá thì NĐT thực hiện lệnh bán 500 REE có sẵn trong tài khoản. Vậy số CP trong tài khoản vẫn là 500 REE, nhưng số tiền mặt tăng lên là phần chênh lệch giữa giá lên và giá mua hôm trước.
NĐT có thể chia số tiền thành 3 hay 4 phần đúng cho đủ chu kỳ T+3. Chiến thuật này chỉ cho phép NĐT thực hiện với thời gian từ T+1. NĐT có thể giảm xuống với T+0 nếu sử dụng thêm một tài khoản ủy quyền.
Chiến thuật mua bán theo nhóm
Chiến thuật có thể cho phép NĐT thực hiện giao dịch với T+0 nhờ lập một nhóm người để mua/bán cùng một loại CP. Giả sử một NĐT mua CP ở đợt khớp lệnh thứ nhất, với giá sàn hay ở một mức giá nào đó. Sang đợt khớp lệnh thứ hai hay thứ ba, giá CP đó tăng, NĐT có thể vay CP từ tài khoản của một người trong nhóm để thực hiện lệnh bán.
Tất nhiên lệnh bán này được người mà tài khoản có CP đó thực hiện. Điều này cho phép NĐT không vi phạm việc cấm mua/bán một loại CP trong cùng một ngày và giảm chu kỳ mua bán xuống đến T+0.
Kể cả khi NĐT chưa mua CP đó, nhưng dự đoán ngày hôm sau, hay đợt khớp lệnh sau giá giảm thì có thể vay một lượng CP nhất định của một người trong nhóm để bán và sẽ mua trả lại vào đợt khớp lệnh hôm sau hay ngày hôm sau...
Chiến thuật này ưu điểm hơn chiến thuật chia nhỏ, vì NĐT không phải chia nhỏ khoản tiền đầu tư của mình nhờ tận dụng được vốn của những người trong nhóm. Bản chất đây cũng giống như nghiệp vụ bán khống.
Tất nhiên NĐT cũng cần phải so sánh với chi phí giao dịch, nếu sau khi trừ đi chi phí giao dịch mà họ vẫn còn lợi nhuận thì họ có thể thực hiện các giao dịch áp dụng hai chiến thuật này. Hai chiến thuật này đã được áp dụng trong thời gian vừa qua và rất hiệu quả khi thị trường biến động thất thường, hay đang trong chu kỳ điều chỉnh giảm và không biết sẽ đảo chiều khi nào.